Từ chuyện “bét ra (mới là) sư phạm”
Bây giờ mọi người đã dần dần quen với cách gọi là “Ngày nhà giáo Việt Nam” chứ thời những năm 1980 trở về trước, ngày 20/11 hàng năm là “Hiến chương các nhà giáo” và đã có một thời các thầy cô cười ra nước mắt: “Ngày hiến cam các nhà giáo…” Sự trùng hợp rất đặc biệt vì “mùa này cam rẻ,” các trò cứ đến nhà thầy cô, là mua cam, thứ quà có lẽ dễ mua, lại “thiết thực” vì thầy cô còn ăn được. Đó là thời nghĩ đến mà thương.
Thời ấy, cứ là thầy cô giáo đồng nghĩa với sống thanh bạch, nghèo, nhưng trọng tình cảm và giàu tự trọng nghề nghiệp. Mẹ tôi là một trong số những người như thế, là con gái Hà Nội cũ, bà được dạy đầy đủ nữ công gia chánh và những tài năng đó thực sự nở rộ trong cái thời mỗi nhà là một “đơn vị sản xuất”. Khâu len, đan móc, may quần áo, vắt sổ, làm guốc gỗ, xe hương (nhang…) thôi thì đủ nghề để đắp đổi cho đồng lương ít ỏi của giáo viên.
Tất nhiên không phải ai cũng như vậy – năm tôi học lớp Hai, sau ngày 20/11 đến lớp bị cô giáo mắng cho một trận xa xả. “Cô từng này tuổi rồi, đến nhà cô còn tặng cô cây dừa (làm từ cuộn phim cũ), vũ nữ bằng thạch cao… Sao không như mấy bạn này bạn kia, đến tặng cô cái nón có phải thiết thực không!” Về kể lại cho mẹ, mắt mẹ tôi thoáng buồn. Hôm sau nghe lỏm bà nói chuyện với dì ruột của tôi: “Chúng nó đến, mình còn lo về trưa đói, nấu cơm cho cả lớp ăn. Chúng nó chẳng tặng cái gì cũng là quý, chứ mình đâu dám yêu cầu tặng cái này cái khác…”
Ấn tượng đó chẳng bao giờ phai mờ trong ký ức con trẻ của tôi. Nhưng thời đó, hiện tượng này là ít vì xã hội tuy nghèo, vẫn giữ được những giá trị về văn hóa và tinh thần; không bị kinh tế thị trường hủy hoại mạnh mẽ như bây giờ.
Nhưng cũng chính thời đó, tư tưởng “nhất y nhì dược, tạm được bách khoa, bét ra mới là sư phạm” cũng đã len lỏi vào xã hội, nó cho thấy cái mong ước của con người có một cuộc sống dư dật hơn, ngoài ăn no mặc ấm dần dần cũng phải tiến lên ăn ngon, mặc đẹp. Và nghề giáo, một nghề có lẽ sống rất chậm nếu chỉ làm công việc chính của mình, chắc chắn sẽ rớt lại phía sau.
Ảnh minh họa. Nguồn: Tuổi trẻ
Đến thời “giàu là nhà giáo” và “nghèo vẫn là nhà giáo”
Đó là thời của chúng ta hiện nay, khi mà người ta nhắc đến cô H, thầy T… thì kèm với câu xuýt xoa “Ối giời ôi, nó bây giờ là hiệu trưởng trường tiểu học thôi, nhưng mà giàu lắm! Mỗi một suất trái tuyến thì cứ gọi là…”, “Ối giời ôi, nó bây giờ dạy thêm xây được nhà mấy tầng Hà Nội đón bố mẹ lên, lại vẫn cơ ngơi to đùng ở quê…”
Chuyện này có lẽ đang ngày một phổ biến ở những thành phố lớn, ví dụ Hà Nội. Chẳng nói đâu xa, một trường tiểu học công lập được gọi là “điểm” ở gần nhà tôi, các cô giáo để xe ô tô chật sân, còn xe máy thì chẳng có cái nào cũ mà hầu hết là xe tay ga đắt tiền.
Nhưng cũng lại không hiếm những thầy cô nghèo đến rất nghèo, phần lớn xuất thân nông thôn, bước chân khỏi cánh cổng trường sư phạm là phải chấp nhận cuộc sống đô thị, thuê nhà ở, dạy dân lập cạnh tranh khốc liệt. Lương có thể cao hơn giáo viên công lập nhưng “bổng lộc” chẳng có gì vì mức học phí cao đã làm hạn chế đi ý định “úy lạo tinh thần thầy cô bằng phong bì” từ phụ huynh mỗi dịp lễ Tết.
Đó là chuyện ở thành phố, còn ở các vùng quê đến các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… thì cuộc sống các thầy cô khó khăn không biết bao nhiêu mà kể. Tôi chứng kiến có cô giáo cắm chốt ở điểm trường vùng cao, mà đi về điểm trường chính xe máy cũng mất 3 giờ đồng hồ đường núi gập ghềnh… Đến mức mà chỉ một hai tháng, xe của cô đã hỏng tan một sợi xích tải nhưng mua thì đắn đo vì lương cô quá thấp. Nhưng cũng không ít cô giáo dạy lâu ở vùng cao rồi, lương không còn là vấn đề nữa vì bậc ngạch cũng đã tương đối, lại ở vùng sâu chẳng cần tiêu gì… lúc đó cái mà họ cần, là các cơ hội phát triển, học tập, nâng cao hiểu biết và kiến thức xã hội.
Thế nên mới có những chuyện cười mà rơi nước mắt như “cô thủ khoa chăn lợn” – biết là vào nghề thì nghèo và đầy khó khăn, nhưng bù lại đó là sự chắc chắn của suất biên chế (“không bị đuổi!”) mà vẫn ham để lao vào, để chấp nhận chăn lợn chờ biên chế chứ không chịu đi dạy dân lập hay làm tạm nghề khác.\\
Nhắc chuyện cũ chuyện nay chẳng qua để thấy rằng qua bao biến động, thì thời nào cũng cần trăn trở hai điều, là thu nhập cho nghề làm thầy và đạo làm thầy. Ai cũng mong người thầy được đền đáp xứng đáng, có thu nhập tương xứng để yên tâm mà gieo con chữ, yên tâm sống với nghề. Nhưng đồng thời, ai cũng mong cho dù vào cái buổi xã hội ngày càng thực dụng, bon chen hơn, thì người thầy càng phải giữ được cái “đạo làm thầy”, để mà gìn giữ, lan tỏa “đạo làm người”.