Công ty bắt cóc trẻ em ở Mỹ hoạt động như thế nào?

Theo The New York Times, sau những vụ li hôn đa sắc tộc tại Mỹ, Australia và nhiều quốc gia khác, một ngành công nghiệp bóng tối gọi là bắt cóc trẻ em đặc biệt phát triển, nhằm đưa con cái trở về bên người cha hoặc mẹ.
Công ty bắt cóc con hoạt động như thế nào? - Ảnh 1.

Đó là một buổi sáng tháng Giêng, N. đang trò chuyện với bà ngoại thì cha của cô và một người đàn ông khác chạy nhanh vào trong nhà và đưa cô đi. “Cứ như thể chúng trồi lên từ dưới đất,” bà của N. nói. (Ảnh: The New York Times).

14.000 đô la và hộ chiếu mới

Vài ngày trước lễ Giáng sinh năm 2013, ông Stuart Dempster thuê một chiếc ô tô đi từ Bangkok đến thị trấn nông thôn Ban Phai phía đông bắc Thái Lan. Ông Dempster, một huấn luyện viên điền kinh 55 tuổi người Australia, được tháp tùng bởi một vệ sĩ cao lớn, vạm vỡ. Hai người đang chuẩn bị bắt cóc chính con gái của ông Dempster.

Khi họ tăng tốc về phía bắc, quanh co qua núi Lam Takhong và Vườn quốc gia Khao Yai, ông Dempster không chắc mình sẽ gặp phải những gì. Ông đã không gặp cô con gái 5 tuổi tên N. của mình trong gần một năm. Tại quê nhà ở Brisbane (bang Queensland, Australia), ông Dempster đồng ý bỏ ra vài nghìn USD để thuê vệ sĩ, ông Brad Stilla, tại một công ty có tên Child Recovery Australia. Đó là một trong số ít công ty giúp cha mẹ đoàn tụ với con cái khi vợ/chồng của họ không cho gặp mặt.

Sau vài giờ, chiếc xe đã tấp vào bên ngoài trường Holy Redeemer Ban Phai. Ông Dempster và ông Stilla đi về phía lối vào - một giếng trời rộng, thoáng mát bên cạnh sân bóng rổ. Ông Dempster cảm thấy lo lắng, cảm giác giống như trước một chặng đua quan trọng. 

Vào trong trường, ông hỏi thăm N. và được một giáo viên chỉ lên một lớp học trên tầng. Ông Dempster tự hỏi liệu con gái có thể nhận ra mình không.

11 tháng trước, vợ ông Dempster, một phụ nữ Thái Lan tên Atchariya Chaloemmeeprasert, đã đưa N. đến Ban Phai thăm họ hàng. Đó là khoảng thời gian không hạnh phúc trong cuộc hôn nhân của họ: Chênh lệch nhau 24 tuổi, họ thường xuyên tranh cãi và ngủ riêng. Trong chuyến đi đến Ban Phai, cô Atchariya không hề gọi điện về nhà. Vào ngày dự định bay về, chú của cô đã gọi điện nói với ông Dempster rằng Atchariya không còn muốn nói chuyện với ông nữa. Cô sẽ ở lại Ban Phai với con gái của họ.

Mẹ của N., Atchariya Chaloemmeeprasert, tại nhà riêng ở Ban Phai. (Ảnh: The New York Times).

Mẹ của N., Atchariya Chaloemmeeprasert, tại nhà riêng ở Ban Phai. (Ảnh: The New York Times).

"Tôi chỉ nghĩ, mình có làm gì sai không?", ông Dempster nhớ lại. "Không ai là hoàn hảo. Không có qui tắc nào cho việc nuôi dạy con cái và cho các mối quan hệ."

Thông thường, cảnh sát địa phương hoặc tòa án gia đình sẽ rất khó xử lí trường hợp phụ huynh đưa con ra nước ngoài mà không có sự cho phép của người còn lại. Nhưng ở Australia, Mỹ và hàng chục quốc gia khác, phụ huynh bị bỏ lại có thể giành đứa trẻ theo một Công ước quốc tế năm 1980 - Công ước Hugue về các khía cạnh dân sự của nạn bắt cóc trẻ em quốc tế.

Những quốc gia thông qua công ước này đồng ý giải quyết các trường hợp bắt cóc bằng cách đưa trẻ em về "nơi ở thường xuyên", nơi tòa án gia đình địa phương sẽ xác định quyền nuôi con.

Đầu năm 2013, không lâu sau khi N. biến mất tại Thái Lan, ông Dempster đã liên lạc với văn phòng luật sư Australia để tìm cách đưa con gái mình trở về. Tuy nhiên, ông nhanh chóng thất vọng bởi thủ tục giấy tờ phức tạp cùng quá trình xử lí chậm chạp. Khi chính phủ Australia thảo luận vấn đề với Thái Lan, chính quyền địa phương tuyên bố không thể tìm thấy cô Atchariya. “Thật là thất bại!", ông Dempster nói.

Nhiều tháng trôi qua, ông Dempster bắt đầu tìm kiếm cách khác. Ông đọc được thông tin trên mạng về những doanh nghiệp chuyên truy tìm các đứa trẻ bị bắt cóc để lấy tiền.

Một luật sư tại Văn phòng Chưởng lí Australia khuyên ông tránh xa những tổ chức này. Chúng thường vi phạm pháp luật, hối lộ cảnh sát và buôn lậu trẻ em qua biên giới. Một số phụ huynh đã mất hàng chục nghìn đô la cho các công ty lừa đảo hoặc vô lương tâm. Ngay cả khi các vụ "bắt cóc" được thực hiện thành công cũng có thể khiến trẻ bị tổn hại. Vị luật sư nói với ông Dempster: "Hai cái sai không tạo nên cái đúng!". Nhưng ông đã bị thuyết phục bởi Child Recovery Australia.

Cuối năm 2013, ông Dempster đã đến gặp nhà sáng lập công ty, một điều tra viên tư nhân tóc bạc có tên Colin Chapman. Sau khi nghe câu chuyện, ông Chapman mở hình ảnh về Ban Phai trên Google Earth cho ông Dempster xem và giải thích về cách lấy hộ chiếu mới cho con gái.

Ông ta cho biết sẽ sắp xếp việc "bắt cóc" con gái ông Dempster với số tiền khoảng 14.000 USD. Sau đó, ông ta bảo ông Dempster đến gặp ông Stilla ở Thái Lan.

"Giúp con với! Con không thở được!"

Khi nhìn vào bên trong lớp học tại Holy Redeemer, ông Dempster lập tức tìm thấy N. ngồi ở chiếc bàn cạnh cửa sổ. Ông đã bế cô bé ra ngoài, ông Stilla đi theo sau. Nhưng cảnh tượng hai người đàn ông ngoại quốc bế theo một đứa bé đã khiến trường Holy Redeemer náo loạn. Cô Taweerart Nilda, giáo viên trường Holy Redeemer, vội vã đi theo hai người đàn ông và hỏi chuyện gì đang xảy ra.

Nhưng ông Stilla gạt cô đi. "Họ bước vào như thể họ có quyền", cô Taweerart nhớ lại. “Họ không quan tâm đến bất cứ điều gì". Cô Taweerart và một vài giáo viên khác đuổi theo ông Dempster và ông Stilla.

Taweerart Nilda, giáo viên cũ của N. tại Ban Phai Holy Redeemer, đã cố gắng ngăn chặn một vụ bắt cóc. (Ảnh: The New York Times).

Taweerart Nilda, giáo viên cũ của N. tại Ban Phai Holy Redeemer, đã cố gắng ngăn chặn một vụ bắt cóc. (Ảnh: The New York Times).

Khi ra ngoài đường, một đám đông vây quanh. Tài xế không chịu mở cửa xe. Cô Taweerart bắt đầu kéo N. khỏi vòng tay ông Dempster. Cô bé hét lên bằng tiếng Thái: "Giúp con với! Con không thở được!”.

Ông Stilla cố gắng giải thích với mọi người rằng N. chính là con gái của ông Dempster nhưng vẫn không có ích gì. Khi cuộc đối đầu trở nên căng thẳng hơn, cảnh sát đã xuất hiện tại hiện trường. Một nhóm giáo viên nam cố giành N. khỏi tay ông Dempster. "Bạn có thể giữ một đứa trẻ trong bao lâu?", ông Dempster nói, "Đó là một cuộc giằng co. Con bé bị đau, bị tổn hại. Vì vậy tôi đã buông tay".

Ngành công nghiệp bắt cóc trẻ em

Khi mọi người nghĩ về những kẻ bắt cóc, họ thường tưởng tượng ra vài kẻ lạ mặt trong những chiếc xe tải tối tăm, dụ các nạn nhân nhỏ tuổi bằng kẹo. Nhưng hầu hết các vụ bắt cóc trẻ em ở Mỹ xảy ra trong các gia đình. 

Một số bộ quần áo yêu thích của N. và chiếc ba lô của cô ấy. (Ảnh: The New York Times).

Một số bộ quần áo yêu thích của N. và chiếc ba lô của cô ấy. (Ảnh: The New York Times).

Năm 2019, Bộ Ngoại giao Mỹ đã báo cáo gần 500 trường hợp bắt cóc mới, trong đó cha mẹ đưa con mình ra nước ngoài. Nguyên nhân một phần do số lượng lớn các cuộc hôn nhân đa sắc tộc. Australia có tỉ lệ bắt cóc trẻ em tương đối cao. Mỗi năm, có 140 bậc cha mẹ nộp đơn thông qua Công ước Hugue để đưa con quay trở về. 

Tuy nhiên, đây là một qui trình pháp lí phức tạp bởi nhiều quốc gia, như Ấn Độ, Nhật Bản không tham gia Công ước. Trước khi Nhật Bản đồng ý kí Công ước này vào năm 2014, quốc gia này được coi là “hố đen” về nạn bắt cóc trẻ em. Và ngay khi cả hai nước đều tham gia, quá trình này cũng mất đến vài năm. 

Chính điều đó khiến một số bậc cha mẹ tìm đến con đường tắt: giành giật con cái của họ. Theo gần 50 cuộc phỏng vấn với các bậc cha mẹ, nhà tâm lí học, luật sư và quan chức, ngành công nghiệp này đầy rẫy nguy hiểm, từ những chiêu trò gian lận, ẩu đả đến các phi vụ vượt biên và bắt giữ quốc tế.

Một số công ty cho biết họ thường can thiệp mà không nghe câu chuyện từ cả hai phía. Đôi khi, họ đưa trẻ em về với người cha, người mẹ mà sau này bị mất quyền nuôi con trước tòa hoặc bị buộc tội bạo hành gia đình. Đồng thời, hành động bắt cóc - nếu thành công - sẽ để lại vết sẹo tâm lí kéo dài đến tuổi trưởng thành cho trẻ.

Vicky Mayes, phát ngôn viên của Reunite, một tổ chức từ thiện ở Anh chuyên giúp đỡ cha mẹ của những đứa trẻ bị bắt cóc cho biết: "Đó là một ngành công nghiệp không được kiểm soát và mọi thứ diễn ra rất sai lầm. Chúng có rủi ro lớn không chỉ về tài chính với các bậc cha mẹ mà còn đối với sự an toàn của chính họ và những đứa trẻ."

Trong nhiều thập kỉ, một số cha mẹ đã làm việc với các đặc vụ có kinh nghiệm quân sự, chẳng hạn như Gus Zamora, một cựu Biệt động quân ở Florida, và Michael Taylor, một cựu "mũ nồi xanh" nổi tiếng. Trong những năm gần đây, nhiều bậc phụ huynh đã tìm đến các công ty khác có tên tuổi hơn, như ABP World Group.

Preston Findlay, luật sư của Trung tâm Quốc gia về Trẻ em Mất tích và Bị bóc lột (NCMEC) ở Virginia, cất một chồng bản in về các công ty bắt cóc trẻ em trong ngăn bàn. "Có những công ty tôi chưa bao giờ nghe nói đến. Đôi khi họ nổi lên và rồi lại thay đổi tên. Họ đăng một bức ảnh bao gồm một đứa trẻ mà tôi đã thấy trên một trang web khác", ông Findlay nói.

Trong những năm qua, một mạng lưới trung gian đã được hình thành, bao gồm luật sư hoặc nhóm vận động kết nối các bậc cha mẹ với các công ty. Trong hơn một thập kỉ, Eric Kalmus, một doanh nhân ở Los Angeles, đã không được gặp con sau khi chia tay vợ, ông đóng vai trò kết nối giữa những người cha bị bỏ rơi và các cựu chiến binh. Những đặc vụ có kinh nghiệm quân sự này tuyên bố sẽ tìm lại các đứa trẻ. 

Với số tiền 1.500 USD, ông Kalmus dạy các ông bố cách thương lượng ngọt ngào với vợ cũ của họ. Nếu thất bại, ông sẽ giới thiệu đến những "đặc vụ bắt cóc" ở Mỹ hoặc châu Âu. “Tôi làm điều này vì tôi thích giúp đỡ mọi người,” ông Kalmus nói. “Nhưng với 1.500 đô la, tôi là ác quỷ!”.

Trong khi đó, các công ty thường tính phí cao hơn nhiều. Đối với nhiều bậc phụ huynh, chi phí đó có thể làm họ phá sản. Kerry Bartlett, nhân viên một bệnh viện ở London (Anh), đã bán căn nhà của mình để chi 60.000 USD nhằm đưa con trai và con gái trở về từ Cyprus vào năm 2017. Khi chúng trở về, cô không còn nhà và phải chuyển vào nhà trọ công.

“Đó là cơ hội duy nhất để đưa bọn trẻ ra ngoài,” cô Bartlett nói. "Tôi không muốn bất cứ ai cố gắng khuyên can tôi."

Ngay cả một hoạt động tương đối đơn giản cũng có thể tiêu tốn hàng chục nghìn đô la. Mùa xuân năm 2018, Keith Schafferius, một "đặc vụ bắt cóc" ở Australia, người tuyên bố đã tìm lại được hơn 100 đứa trẻ trong nhiều thập kỉ, được người đàn ông thuê để đưa một đứa trẻ mẫu giáo trở về từ Lithuania. 

Một buổi sáng, ông Schafferius đợi bên ngoài nhà của người mẹ cho đến khi bà ra ngoài để đưa con đi học. “Chúng tôi đã mang đứa trẻ đi, và bà ta la hét, nhưng rồi chúng tôi vẫn quay trở lại được biên giới,” ông Schafferius, 78 tuổi kể lại. “Một điều khá đơn giản nhưng tôi đã tiêu đến khoảng 15.000 đô la trong số đó."

"Đó là sự khác biệt giữa chúng tôi và tội phạm"

Dịch vụ bắt cóc núp bóng công ty thiện nguyện - Ảnh 1.

Ban Phai, Thái Lan. (Ảnh: The New York Times).

Không lâu sau vụ ẩu đả ở Holy Redeemer, ông Dempster trở lại Brisbane và gọi điện cho Sean Felton, nhà sáng lập Abducted Angels, một tổ chức có trụ sở tại Anh chuyên đưa ra lời khuyên và trợ giúp pháp lí cho những cha mẹ có con bị bắt cóc. Ông Gelton khuyên ông Dempster liên hệ với một "đặc vụ bắt cóc" có tên Adam Whittington.

Là một cựu quân nhân Australia, sau này làm cảnh sát ở London, ông Whittington điều hành Child Abduction Recovery International, một công ty có trụ sở tại Thụy Điển. Khi gọi đến ông Whittington, ông Dempster rất ấn tượng với phong thái điềm tĩnh và sự chuyên nghiệp ở đầu dây bên kia. "Tôi cảm thấy rất thoải mái. Tôi ngủ ngon hơn vào đêm hôm đó", người đàn ông Australia kể lại.

Trước khi "nhận" một khách hàng, ông Whittington tiến hành sàng lọc để loại bỏ những phụ huynh có hành vi bạo lực hoặc ngược đãi. Ông gửi cho các khách hàng tiềm năng một bảng câu hỏi chi tiết, xem xét tiền sử phạm tội và yêu cầu các lệnh của tòa án liên quan đến quyền nuôi con của họ. 

Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng việc kiểm tra lí lịch đầy đủ là không thể. “Chúng tôi không thể lôi bộ xương ra khỏi tủ quần áo của mọi người. Có rất nhiều người có hành vi bạo lực gia đình nhưng không bao giờ bị bắt quả tang”, người đàn ông Australia nói.

Vì vậy, ông Whittington còn dựa vào bản năng đã được mài giũa trong quá trình làm việc ở ngành cảnh sát. "Bạn có thể biết điều đó ngay cả khi chỉ nói chuyện với ông Dempster qua điện thoại. Ông ta hẳn là một người đàn ông đáng yêu!”, ông Whittington nói.

Ông Whittington đã bắt cóc thành công những đứa trẻ trên khắp châu Âu và châu Á. Vào năm 2016, kênh truyền hình Channel 9 của Australia đã trả cho ông Whittington hơn 70.000 USD để đưa hai đứa con của bà Sally Faulkner đến từ Lebanon, nơi chúng đang ở với cha. 

Vào một ngày tháng 4 năm đó, nhóm làm việc của Whittington đã bắt cóc những đứa trẻ trên đường phố trong một khu phố ở Beirut. Nhưng phi vụ này đã kết thúc trong thảm họa: Trước khi lũ trẻ được đưa đi, chính quyền địa phương đã bắt giữ bà Faulkner, ông Whittington và một nhóm tin tức của Kênh Channel 9 đã đến nước này để ghi lại hoạt động.

Ông Whittington đã bị bỏ tù trong ba tháng, sau đó ông được tại ngoại và trở về Thụy Điển. Các con của bà Faulkner vẫn ở Lebanon với cha của chúng. Phi vụ thất bại đáng xấu hổ khiến các đối thủ không ngừng chế giễu và chỉ trích Whittington.

Adam Whittington. (Ảnh: The New York Times).

Adam Whittington. (Ảnh: The New York Times).

Tuy nhiên, Whittington khẳng định những người chỉ trích ông là những kẻ dối trá. Ông thoải mái thừa nhận rằng bản thân đã vi phạm luật pháp trên khắp thế giới, và khoe khoang về việc hối lộ các sĩ quan cảnh sát cùng quan chức biên giới. Năm 2014, Whittington bị bắt ở Singapore và bị buộc tội gài bẫy một người đàn ông lớn tuổi. “Những gì tôi làm là giúp đỡ trẻ em. Đó là sự khác biệt giữa chúng tôi và bọn tội phạm", ông Whittington khẳng định.

"Anh ấy phải là một người đàn ông tốt!"

Thời gian đầu, cô Atchariya Chaloemmeeprasert có ấn tượng tốt về ông Dempster. Cô gặp ông trên một trang web hẹn hò tên Thai Love Link khi mới 20 tuổi. Ông Dempster, lớn gấp đôi tuổi của cô và chưa từng kết hôn, hi vọng được làm quen với các cô gái Thái. Khi trở nên thân mật hơn, ông hứa sẽ đến thăm gia đình cô ở Ban Phai.

Hai người đính hôn tại Thái Lan và khi mang thai được khoảng 6 tháng, cô Atchariya đến sống với ông Dempster ở Wanganui, New Zealand. Phần lớn thời gian cô ở nhà chăm sóc N., trong khi ông Dempster huấn luyện điền kinh.

Ông Dempster và bà Atchariya đưa ra những lời kể rất khác nhau về cuộc hôn nhân của họ. Atchariya nói rằng ông Dempster khác xa người đàn ông đã đến thăm cô ở Ban Phai. Ông ta thường xuyên tức giận, đập vỡ bát đĩa và bàn ghế, thậm chí đánh đập cô. Trong khi đó, ông Dempster phủ nhận việc từng đánh đập hay lừa dối vợ mình.

Ông Whittington khẳng định họ đã trình bày và phản pháo lại cáo buộc của bà Atchariya với cảnh sát Australia. Nhưng Dempster cho biết ông lo lắng rằng hàng xóm và những người quen khác sẽ chấp nhận phiên bản câu chuyện của vợ ông. 

“Tôi cảm thấy thật bất lực. Bởi vì ai sẽ tin vào một gã thô kệch như tôi?", ông Dempster trải lòng.

Bế tắc tại đại sứ quán

Ông Whittington lấy 12.000 USD từ ông Dempster trước khi tìm cách bắt cóc N. Sau vụ bắt cóc trước Giáng sinh, N. quay lại trường học ở Ban Phai và sống với đại gia đình trong một ngôi nhà hai tầng màu trắng có ban công. Ông Whittington đã đến Ban Phai và lắp đặt thiết bị theo dõi trên xe hơi của mẹ cô Atchariya.

Vào một buổi sáng, hai người đàn ông rón rén bước vào sân nhà cô Atchariya. N. đang ngồi ở cửa sau, trò chuyện với bà ngoại khi bà nấu bữa sáng tại một khu bếp ngoài trời. Khoảng 7h30 sáng, họ phóng thẳng vào ngôi nhà. "Cứ như thể chúng trồi lên từ dưới đất!", bà ngoại N. kể lại.

Một lớp học tại Holy Redeemer. (Ảnh: The New York Times).

Một lớp học tại Holy Redeemer. (Ảnh: The New York Times).

Bà cố kéo N. lại gần nhưng ông Dempster nhanh chóng đẩy bà ra và túm lấy con gái. Cô Atchariya lúc đó đang ở trong nhà và chuẩn bị cho cháu trai đi học thì nghe thấy tiếng mẹ hét lên. Cô vội vã ra ngoài nhưng ông Dempster và ông Whittington đã biến mất. Cô chắc chắn rằng họ đang trên đường rời khỏi Thái Lan. Sau khi gọi cảnh sát, cô bắt đầu cầu nguyện.

"Nếu không tìm thấy con bé, trái tim tôi sẽ vỡ thành từng mảnh", cô Atchariya đau khổ. Linh tính mách bảo, cô Atchariya bắt xe đến Bangkok và tới Đại sứ quán New Zealand. Quả nhiên, ông Dempster và ông Whittington cũng đến đó để đóng dấu hộ chiếu của N. Các quan chức của đại sứ quán không cho phép cô vào.

Vì vậy, cô Atchariya gọi cảnh sát. Mãi đến khi đại sứ quán đóng cửa, hai người đàn ông mới xuất hiện. Tại đây, ông Whittington cố thuyết phục rằng ông Dempster sẽ chuyển đến Thái Lan để dạy tiếng Anh và làm huấn luyện viên. "Tôi chẳng hề quan tâm đến Dempster hay gia đình cô. Những gì chúng ta cần lúc này là ngồi xuống và thương lượng điều tốt nhất cho N.", ông khẳng định.

Đó là một màn thuyết phục hoàn hảo. Ông Whittington tỏ ra là một người hòa giải cho cặp vợ chồng chứ không phải kẻ bắt cóc trẻ em. Vì vậy, cô Atchariya nhanh chóng tin tưởng và đồng ý cho chồng ở cùng N. vài ngày trong tuần, miễn là ông ta giao lại hộ chiếu trước mỗi lần đến thăm.

Nhưng khi ông Dempster trở lại Ban Phai, ông đã mang theo hai hộ chiếu.

"Lẻn" qua biên giới

Không giằng co, không cướp giật, không chạy nước rút ra xe ô tô. Lần thứ ba, ông Dempster bỏ trốn cùng con gái, vào gần cuối tháng 4/2015. Ông đã đưa hộ chiếu hết hạn cho bà của N. 

Sau vụ bắt cóc bất thành vào tháng một, việc đưa N. đến một sân bay lớn của Thái Lan dường như là không khôn ngoan. Vì vậy, ông Whittington đã lái xe đến biên giới giữa Thái Lan và Campuchia. Kế hoạch là ông Dempster bay cùng N. từ Campuchia về Việt Nam và sang Australia.

Nhưng Dempster và N. bị các quan chức biên phòng Campuchia giữ lại, họ nói rằng giấy thông hành của hai người có vấn đề. Mắc kẹt ở cửa khẩu, ông Dempster trở nên bối rối. Người dân địa phương bắt đầu nhìn ông Dempster và N. một cách nghi ngờ. Ông Dempster đã gọi cho ông Whittington, và hai người đã tìm cách khác. Sau khi đi thuyền men dọc bờ sông Mekong, ra khỏi Campuchia và Lào, ông Dempster và N. bay sang Australia. 

Kết thúc chuyến hành trình không mấy dễ dàng để trở lại Australia, ông Whittington thông báo về sự trở về của N. trong một bài đăng trên Facebook. Tại đó, ông nói rằng cô bé đã sống trong điều kiện tồi tệ và thiếu dinh dưỡng ở Thái Lan.

Bà Atchariya đã không gặp con gái mình kể từ tháng 4 năm 2015. "Tại sao Chúa lại cho phép điều này xảy ra?" cô ấy nói. (Ảnh: The New York Times).

Bà Atchariya đã không gặp con gái mình kể từ tháng 4 năm 2015. "Tại sao Chúa lại cho phép điều này xảy ra?" cô ấy nói. (Ảnh: The New York Times).

"Họ đã xúc phạm đất nước của tôi", cô Atchariya phẫn nộ. Sau vụ việc, cô rơi vào trầm cảm. Cô Atchariya tháo đồ trang trí trong phòng ngủ của N., tránh nhìn vào những bức ảnh của con bé và không liên lạc được với ông Dempster.

Trong 5 năm qua, ông Dempster đã tự mình nuôi nấng N., hiện giờ cô bé đã 12 tuổi. Dempster cho biết anh không hề hối hận khi "lách luật" để đưa con trở về Australia. “Đứa con gái tội nghiệp của tôi mắc kẹt ở Thái Lan nếu tôi tuân thủ cái gọi là qui tắc", ông nói. 

Các nhà tâm lí học nói rằng kí ức về những hành động cướp giật có thể ám ảnh trẻ em khi trưởng thành, khiến chúng không muốn bắt đầu mối quan hệ nghiêm túc hoặc lo sợ rằng con mình có thể gặp phải các chấn thương tương tự.

N. đã gặp bác sĩ trị liệu, ông Dempster cho biết bản thân ông tránh đề cập đến việc cô bé trở về từ Thái Lan. Tuy nhiên, ông vẫn lập một blog ghi lại nỗ lực đưa con trở về. "Tôi muốn N. có cơ hội đọc các câu chuyện ở đây. Khi con bé có khả năng và thời gian riêng, tôi muốn nó tự suy nghĩ về những gì đã xảy ra", ông nói.

chọn
Bóng ông lớn bất động sản đứng sau khu đô thị 270 triệu USD sắp triển khai ở Nam Từ Liêm
Dự kiến vào quý I/2026, Khu đô thị Thành phố Công nghệ xanh Hà Nội tại quận Nam Từ Liêm sẽ khởi công với tổng vốn khoảng 270 triệu USD. Chủ đầu tư dự án này là cổ đông đang nắm vốn tại Ngân hàng MSB, đồng thời có mối liên hệ với nhóm ROX Group.