Thông tin từ Bộ Công Thương cho biết diễn đàn giao thương trực tuyến logistics Việt Nam – EU 2020 diễn ra ngày 8 và 9/12 đã thu hút sự tham gia của 150 cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam và các nước EU hoạt động trong lĩnh vực logistics.
Phát biểu tại diễn đàn, ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, cho biết tính riêng 10 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU dù giảm nhẹ 3,8% so với cùng kì năm 2019 nhưng vẫn đạt mức cao, với 33,23 tỉ USD, trong khi nhập khẩu của Việt Nam từ EU tăng hơn 3% so với cùng kì năm trước và đạt 12,42 tỉ USD.
Theo ông Vũ Bá Phú, thời gian qua, ngành logistics Việt Nam có mức tăng trưởng cao 13-15%. Hiện nay Việt Nam có khoảng 4.000 doanh nghiệp logistics, bao gồm cả dịch vụ kho bãi, giao nhận, vận tải...
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, cho biết thêm logistics đang trở thành một ngành kinh tế thu hút sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam.
“Sự phát triển của ngành logistics đồng thời sẽ tạo điều kiện để Việt Nam nhanh chóng trở thành một trung tâm sản xuất mới trong khu vực, có năng suất lao động cao và năng lực cạnh tranh tốt”, ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh.
Tuy nhiên, ông Vũ Bá Phú cho rằng, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, thương mại hai chiều Việt Nam – EU đang đứng trước nhiều thách thức, trong đó có những khó khăn từ một số hoạt động logistics không diễn ra như thông lệ.
Có thể đơn cử như thời gian qua, một số dịch vụ logistics cho hàng hóa lưu chuyển giữa Việt Nam và EU trở nên đắt đỏ và khan hiếm, các doanh nghiệp cũng phải đáp ứng thêm một số yêu cầu, điều kiện mới do các thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu, quy trình kiểm soát hàng hóa quốc tế của EU có sự thay đổi…
Ông Nguyễn Tương, Phó Tổng Thư kí VLA cũng chỉ ra những thách thức của các doanh nghiệp logistics Việt Nam như hạn chế về chất lượng dịch vụ, kĩ năng quản lí, ứng dụng công nghệ thông tin và nguồn nhân lực.
Những khó khăn chính trong chuyển đổi kĩ thuật số đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics hiện nay gồm: tình hình tài chính, nguồn nhân lực và lựa chọn công nghệ phù hợp.
Do đó, theo nhận định của ông Vũ Bá Phú, để hoạt động trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam – EU hiệu quả hơn, việc tối ưu hóa chất lượng, hình thức thực hiện các dịch vụ logistics phục vụ hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam – EU trong điều kiện kinh tế mới dưới tác động của dịch Covid-19 và tiến tới hậu Covid-19 là một trong những giải pháp cấp thiết.
Đồng thời, ông Vũ Bá Phú bày tỏ mong muốn doanh nghiệp logistics Việt Nam và EU trao đổi định hướng và cơ hội hợp tác, liên kết cùng tận dụng và phát huy những nguồn lực của nhau để tối ưu hóa dịch vụ logistics, phục vụ tốt hơn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hai bên.
Về phía Bộ Công Thương Việt Nam, ông Trần Thanh Hải cũng gợi ý, các doanh nghiệp EU có thể tham gia đầu tư vào hạ tầng logistics ở Việt Nam, cũng như tham gia triển khai các hoạt động ứng dụng công nghệ trong logistics, đẩy mạnh đào tạo nhân lực logistics, hợp tác trong những lĩnh vực mới như: logistics đô thị, logistics tuần hoàn, logistics xanh.
Còn ông Sjaak de Klein, Trưởng nhóm cấp cao về Giải pháp chuỗi cung ứng Châu Á, Hội đồng Phân phối Quốc tế Hà Lan (HIDC) cho biết, cảng Rotterdam của nước này là cảng lớn nhất Châu Âu, mở rộng đến hơn 200 cảng biển nước sâu, đặc biệt, cảng này tối ưu hóa chuỗi cung ứng thông qua số hóa. Bên cạnh đó là sân bay Amsterdam Schiphol là sân bay kết nối tốt thứ 2 trên thế giới…
Ông Sjaak de Klein cam kết, HIDC sẵn sàng tư vấn về chuỗi cung ứng Châu Âu (thiết kế hậu cần, cấu trúc tài chính…) cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam.
Ở một góc độ khác, ông Gilbert Canameras, Chủ tịch Francorisk, chuyên gia tư vấn ngoại thương Pháp chia sẻ rằng việc đánh giá, xử lí rủi ro là yêu cầu hàng đầu đối với bất cứ doanh nghiệp nào bởi khi doanh nghiệp tham gia vào thế giới thay đổi liên tục, các rủi ro sẽ càng ngày càng tăng cao.
Doanh nghiệp cần trang bị hệ thống dự báo rủi ro để giảm thiểu các rủi ro. Với từng rủi ro như rủi ro từ yếu tố nội tại (hỏng máy móc, con người) hay yếu tố khách quan (chính trị…), doanh nghiệp cần xác định rủi ro nào có thể chấp nhận và rủi ro nào không thể chấp nhận và đưa ra những biện pháp phù hợp để giảm thiểu.