Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng an ninh Võ Trọng Việt. (Ảnh: Ngọc Thắng)
Chiều 18/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Trong đề án này, Chính phủ dự kiến sẽ huy động số vốn thực hiện tối thiểu là 335.421,367 tỉ đồng (trong đó, vốn đầu tư phát triển: 290.959,364 tỉ đồng; vốn sự nghiệp: 9.462,003 tỉ đồng; vốn tín dụng chính sách: 35.000 tỉ đồng) triển khai 9 dự án và 2 nhiệm vụ liên quan để đạt được các mục tiêu đặt ra về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi từ 2021 - 2030.
Cho ý kiến về vấn đề này, Phó chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho rằng, nếu đề án được thông qua thì sẽ mang tính lịch sử vì lần đầu tiên có đề án tổng thể để phát triển kinh tế - xã hội phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, ông Hiển đề nghị cần rà soát kĩ để khả thi, cụ thể, đi vào, tránh đưa đề án mà thực hiện không được như mong muốn.
Cụ thể, ông Hiển cho rằng, một số mục tiêu của đề án hơi tham vọng, khó thực hiện. Dẫn mục tiêu đến năm 2025, thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số tăng gấp 2,5 lần; 90% đường ở thôn, bản được cứng hóa theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải..., ông Hiển nói khó thực hiện được trong 5 năm tới.
Từ đó, ông Hiển đề nghị đề án phải đi vào khâu cốt lõi, đột phá, tập trung vào những phần còn yếu nhất trong những năm qua trong thực hiện chính sách miền núi để đưa ra các chính sách hỗ trợ và tổ chức phù hợp. Bên cạnh đó, ông Hiển cũng đề nghị Chính phủ tính toán kỹ về nguồn lực để đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng An ninh Võ Trọng Việt thì nêu quan điểm: suốt mấy chục năm qua, Đảng, Nhà nước quan tâm song đồng bào dân tộc miền núi tiến rất chậm. Chỉ ra nhiều nguyên nhân, từ sự ỷ lại của đồng bào, nơi ở khó khăn trăm bề, ông Việt cũng chỉ rõ, sự đầu tư vẫn còn thấp. “Tôi hay nói ở trên cao nhưng đầu tư rất thấp, còn ở dưới thấp đầu tư rất cao. Mâu thuẫn thế”, ông Việt nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, theo ông Việt, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa thu hút được người giỏi, đầu tư của các doanh nghiệp. “Các đồng chí hỏi xem, nói là rừng vàng nhưng tôi chưa thấy nhà khoa học nào lên đó cả. Trên ấy toàn thấy đại ca nhiều mà đại gia ít”, ông Việt nói và cho rằng, đề án này phải kêu gọi được các “đại gia” lên chứ bây giờ toàn đại ca chặt rừng, chặt gỗ thì rất khó phát triển được.
Từ đó, ông Việt nhìn nhận, có một số việc có thể tập trung làm tốt được mà không tốn tiền, không phải lập dự án. “Thứ nhất là rừng. Chính sách thế nào để người dân sống bằng rừng, khá bằng rừng chứ không thể làm giàu bằng rừng được với cơ chế như hiện nay”, ông Việt nêu.
Bên cạnh đó, ông Việt cũng cho rằng, trong vòng 10 - 15 năm tới, cần có chính sách để phủ sóng chăm sóc sức khỏe cơ sở cho dân bằng quân dân y. Theo ông Việt, hiện nay bộ đội biên phòng đang làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho đồng bào rất tốt dù không có tiền. Về đề án của Chính phủ, ông Việt nói: “Riêng đề án này có tới 9 dự án thành phần, không khéo ra Quốc hội lại phản cảm”.
“Vấn đề chính là cách làm. Làm sao nhận thức bà con chuyển đổi. Thứ 2 là bám bà con. Chứ đầu tư dự án rồi bỏ đó, sống chết mặc bay là không ăn thua. Hết dự án, cán bộ dự án về là dự án bỏ”, ông Việt nói thêm.
Từ phân tích trên, ông Việt cũng đồng tình với ông Hiển và cho rằng, mục tiêu của đề án vẫn chung chung, nhiều mục tiêu 30 - 40 năm sau chưa làm được chứ chưa nói tới 5 - 10 năm. “Tôi cảm nhận là đề án này chưa sát bà con. Nên đi theo hướng bà con cần gì thì mình chăm lo cái đó, đi từ nhỏ tới lớn. Chứ không phải đưa ra cái đề án lớn thế này rồi không biết hiệu quả thế nào. Rồi 5 - 10 năm sau, lớp sau nó bảo mấy ông này ra đề án lung tung mà không làm được”, ông Việt đề nghị.
Nêu ý kiến sau đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Nguyễn Đức Hải cho rằng, cần phải có nhìn nhận và đánh giá tích cực hơn về địa bàn miền núi, để thấy được tiềm năng phát triển chứ không chỉ thấy sự chênh lệch.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Nguyễn Đức Hải nêu ý kiến tại phiên họp. (Ảnh: Gia Hân)
"Chẳng hạn như tiềm năng về vốn rừng, về dược liệu, du lịch tôi nghĩ phải có tư duy phát triển kinh tế bền vững nó khác đi chứ nếu không ta cứ nghĩ đồng bào khó khăn rồi phải đầu tư vào. Anh Việt nói đại ca nhiều hơn đại gia. Đúng là trước kia đại ca nhưng gần đây rất nhiều đại gia, doanh nghiệp bắt đầu tìm lên miền núi để đầu tư công nghệ, các tập đoàn lớn bắt đầu quan tâm miền núi vì đất chỉ miền núi mới có, mới còn", ông Hải phân tích và cho rằng, những tiềm năng này là cơ sở để cải thiện đời sống đồng bào dân tộc miền núi.
Dẫn ví dụ tỉnh Hà Giang hiện nay nhiều nhà khoa học và doanh nghiệp lên đầu tư, hay các vùng trồng sâm ngọc linh tại Gia Lai, Kon Tum, ông Hải cho rằng, doanh nghiệp phải đầu tư vào thì đồng bào mới phát triển được.
"Tự đồng bào phát triển kinh tế hộ thì cũng một phần nhưng phải có doanh nghiệp thực sự có tâm, có tiền, có tài và vì đồng bào thì sẽ phát triển được", ông Hải nhìn nhận.
Tuy nhiên, ông Hải cũng khẳng định, khi triển khai đề án, ngoài tập trung, có trọng tâm, trọng điểm thì điều quan trọng là phải đi đôi với phân cấp mạnh. "Bài học của chúng ta vừa qua là phân tán các chương trình nên đi xuống là tản mạn không hiệu quả. Cho nên, tôi cho rằng, trên này lo chính sách, nguồn vốn còn để địa phương thực hiện thì sẽ rõ hơn", ông Hải nói, đồng thời đề nghị đi kèm phân cấp thì phải xác định trách nhiệm cá nhân, tổ chức rõ ràng, tránh lặp lại các vấn đề như vừa qua.
- Thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số tăng ít nhất 2,5 lần so với năm 2020; giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm từ 3% đến 5%; giảm 30% số xã đặc biệt khó khăn; 50% số thôn đặc biệt khó khăn so với năm 2020.
- Trên 80% lao động từ 18 tuổi trở lên có việc làm với thu nhập ổn định.
- Trên 90% đường ở thôn, bản được cứng hóa theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải.
- Quy hoạch và bố trí, sắp xếp ổn định 50% số hộ di cư tự phát; từng bước sắp xếp ổn định số hộ cư trú phân tán trong các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, khu vực có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quyết, sạt lở đất.
- 100% xã có trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đủ cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy và học; đảm bảo có từ 10 - 12% số học sinh dân tộc thiểu số trong độ tuổi trung học được hưởng chính sách trường phổ thông dân tộc nội trú; 100% các tỉnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giữ vững kết quả phổ cập giáo dục các cấp học. Phấn đấu ít nhất 99% trẻ em 5 tuổi hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, 97% trẻ em 6 tuổi vào học lớp 1; trên 95% người dân tộc thiểu số trong độ tuổi 15 đến hết tuổi lao động biết chữ.
- Trên 90% trạm y tế xã đủ điều kiện khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Trên 90% phụ nữ được khám thai ít nhất 3 lần trong kỳ mang thai, sinh con tại cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 8%.
- Trên 90% cán bộ, công chức cấp xã có trình độ trung cấp chuyên nghiệp, trong đó trên 60% có trình độ đại học và trung cấp lý luận chính trị; trên 80% được bồi dưỡng kiến thức dân tộc theo Khung đối tượng 4.
- Về đời sống: giảm 50% số hộ dân tộc thiểu số phải ở nhà tạm, dột nát; trên 95% hộ gia đình có phương tiện nghe, nhìn; trên 50% hộ gia đình được sử dụng nước hợp vệ sinh; trên 60% số hộ dân tộc thiểu số được sử dụng hố xí hợp vệ sinh.
- 100% thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có chi bộ độc lập làm hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở.
- Không còn hộ đói; hộ nghèo giảm 80% so với năm 2020.
- 80% hộ gia đình có mức sống bằng với mức sống dân cư trong khu vực.
- Giảm ít nhất 70% số thôn đặc biệt khó khăn; 80% số xã đặc biệt khó khăn so với năm 2020.
- Trên 85% xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có cơ sở hạ tầng (đường, điện, trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc…) đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân.