Số liệu của Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) cho biết khối lượng gạo xuất khẩu tháng 11/2020 ước đạt 388.000 tấn với giá trị đạt 207 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 11 tháng đầu năm 2020 đạt 5,74 triệu tấn và 2,85 tỉ USD, giảm 2,2% về khối lượng nhưng tăng 10,4% về giá trị so với cùng kì năm 2019.
Tính trong 10 tháng đầu năm 2020, Philippines đứng vị trí thứ nhất về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam với 32,9% thị phần, đạt 1,86 triệu tấn và 868,66 triệu USD, giảm 4,3% về khối lượng nhưng tăng 8,4% về giá trị so với cùng kì năm 2019.
Các thị trường có giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh là: Indonesia, tăng gấp 3,1 lần, đạt 83.800 tấn và 45,6 triệu USD và Trung Quốc, tăng 79,2%, đạt 657.600 tấn và 379,6 triệu USD.
Ngược lại, thị trường có giá trị xuất khẩu gạo giảm mạnh nhất trong 10 tháng đầu năm 2020 là Iraq giảm 65,6%, đạt 90.000 tấn và 47,6 triệu USD. Giá gạo xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2020 đạt 493,3 USD/tấn, tăng 12,7% so với cùng kì năm 2019.
Về chủng loại xuất khẩu, trong 10 tháng năm 2020, giá trị xuất khẩu gạo trắng chiếm 40,3% tổng kim ngạch; gạo jasmine và gạo thơm chiếm 37,7%; gạo nếp chiếm 17,6%; gạo japonica và gạo giống Nhật chiếm 4,2%.
Các thị trường xuất khẩu gạo trắng lớn nhất của Việt Nam là Philippines chiếm 54,5%, Malaysia chiếm 13,4% và Cuba chiếm 8,8%.
Với gạo jasmine và gạo thơm, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Philippines chiếm 26,4%, Ghana chiếm 21,2% và Bờ Biển Ngà chiếm 14,8%. Với gạo nếp, thị trường xuất khẩu lớn là Trung Quốc chiếm 72,4%, Indonesia chiếm 8% và Philippines chiếm 7%.
Với gạo japonica và gạo giống Nhật, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Kiribati chiếm 17,5%, Đảo quốc Solomon chiếm 15,7% và Trung Quốc chiếm 6,9%.
Trong gần một tháng qua, giá gạo 5% tấm của Việt Nam có xu hướng tăng nhẹ từ mức khoảng 495 USD/tấn vào đầu tháng lên khoảng 498 USD/tấn vào gần cuối tháng. Trong khi đó, giá gạo 5% tấm của Thái Lan có xu hướng tăng mạnh từ 466 USD/tấn vào đầu tháng lên 480 USD/tấn vào gần cuối tháng.
Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản cho rằng nguyên nhân chính là do nguồn cung từ vụ mới chậm đưa ra thị trường khiến tình trạng khan hiếm làm giảm giá xảy ra. Còn giá gạo Ấn Độ giảm nhẹ từ 373 USD/tấn vào đầu tháng xuống 368 USD/tấn vào gần cuối tháng do đồng Rupee có xu hướng giảm giá.
Tại thị trường trong nước, giá lúa, gạo tại các tỉnh ĐBSCL diễn biến tăng, giảm trái chiều trong tháng 11, song nhìn chung giá tăng nhẹ so với tháng 10/2020.
Cụ thể, tại An Giang, lúa IR50404 tăng 200 đồng/kg lên mức 6.200 đồng/kg; lúa OM 2514 tăng 400 đồng/kg lên mức 6.300 đồng/kg; lúa gạo thường ở mức 10.500 đồng/kg; gạo thơm đặc sản jasmine ở mức 14.500 đồng/kg.
Tại Kiên Giang, giá lúa giảm do mưa bão gây ngập úng, với lúa IR50404 giảm 200 đồng/kg xuống còn 6.600 – 6.800 đồng/kg; lúa OM 6976 ở mức 6.900 – 7.200 đồng/kg; lúa OM 5451 giảm 200 đồng/kg xuống 7.000 – 7.100 đồng/kg.
Tại Vĩnh Long, lúa IR50404 tại huyện Vũng Liêm được ghi nhận ở mức cao, 6.000 đồng/kg lúa tươi và 6.800 đồng/kg lúa khô; lúa hạt dài tươi ở mức 6.300 đồng/kg, lúa khô ở mức 6.900 đồng/kg.
Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản dự kiến tháng 12 và thời gian tới giá gạo sẽ bình ổn trở lại, do nguồn cung từ vụ Thu – Đông đang vơi dần và cung từ lúa Đông Xuân sẽ bắt đầu từ 1 – 2 tháng tới.