Khoảng 3h sáng, tôi phát hiện hàng xóm nhắn tin thân mật và hẹn vợ tôi ra ngoài để gặp. Tôi đã cầm điện thoại của vợ nhắn lại cho người hàng xóm này. Đêm hôm sau, tôi cầm điện thoại của vợ gọi hàng xóm ra ngoài, nhưng anh ta không ra, tắt điện thoại. Sáng hôm sau, khi thấy hàng xóm tôi đã lao vào đánh người này bị thương. Xin hỏi, hành vi của người hàng xóm và vợ tôi có phạm pháp không? Hành vi của tôi sẽ bị xử lý như thế nào?
Độc giả xin giấu tên hỏi
Căn cứ pháp lý: - Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012. - Luật Hôn nhân và gia đình ngày 19 tháng 6 năm 2014. - Bộ luật Hình sự. - Nghị định 110/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. - Nghị định 167/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống, chống bạo lực gia đình. |
Về hành vi “ngoại tình”
Do các thông tin mà bạn cung cấp chưa rõ ràng, đầy đủ về mối quan hệ giữa vợ bạn và người hàng xóm nên rất khó để xác định hai người đó có vi phạm pháp luật hay không. Tuy nhiên, xin nêu một số quy định của pháp luật có liên quan trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình để bạn đối chiếu với hành vi của hai người đó, từ đó xác định hành vi của hai người đó có vi phạm pháp luật hay không.
Theo quy định tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 1 Điều 48 của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì người có một trong các hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, bao gồm:
“a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ...”.
Trường hợp người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật hình sự và bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Đánh ghen sẽ bị xử lý thế nào theo quy định của pháp luật? - Ảnh minh họa |
Về hành vi gây thương tích cho người khác
Theo thông tin mà bạn cung cấp thì bạn đã có hành vi xâm hại sức khỏe, cố ý gây thương tích cho người hàng xóm. Hành vi này, tùy theo tính chất, mức độ sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:
- Theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, người nào có hành vi “xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác” thì sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
- Trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác và bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 104 thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 104 thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 104 thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Luật gia Đồng Xuân Thuận