Các bị cáo trong vụ án gồm: Nguyễn Quốc Đạt (SN 1976), cùng vợ là Nguyễn Thị Hồng Nhung (SN 1977, cùng trú tại xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội), Trần Văn Song (SN 1959, trú tại phường Trung Thành, TP Thái Nguyên). Ngoài ra còn có 3 bị cáo Dương Bá Hòa (SN 1961, trú tại phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội); Nguyễn Việt (SN 1974, trú tại phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội), đều từng là cán bộ cấp cao của Công ty Gang thép Thái Nguyên.
Trong vụ án này, hai vợ chồng bị cáo Đạt và Nhung cùng bị truy tố về tội Lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 140 - BLHS; bị cáo Song bị truy tố về tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, theo quy định tại khoản 3 Điều 165 - BLHS; hai bị cáo Hòa và Việt bị truy tố về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, theo quy định tại khoản 2 Điều 285 - BLHS.
Trước phiên tòa xét xử lần này, 4 người từng là cán bộ, nhân viên của Ngân hàng TMCP Đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV) - CN Tây Hà Nội cũng bị đề cập xem xét về tội Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, với kết quả điều tra bổ sung xác định không đủ căn cứ xử hình sự ở vụ án này nên các cán bộ ngân hàng liên quan đã được đình chỉ giải quyết.
Hồ sơ vụ án cho thấy, năm 2003, Nguyễn Quốc Đạt thành lập Công ty Hồng Trang và giữ chức giám đốc, Nguyễn Thị Hồng Nhung đảm nhiệm vai trò kế toán trưởng. Sau gần 5 năm, Nhung đứng tên thành lập thêm Công ty Lưỡng Thổ và kinh doanh các mặt hàng thép là chủ yếu.
Các bị cáo tại phiên tòa xét xử |
Việc thành lập các pháp nhân nêu trên, thực chất chỉ là để vợ chồng Đạt ký các hợp đồng mua bán thép giữa hai doanh nghiệp và luân chuyển tiền qua lại với doanh số không có thực nhằm tạo ra dòng tiền lớn qua tài khoản ở BIDV - CN Tây Hà Nội. Đơn cử như năm 2009, Công ty Hồng Trang chỉ có doanh thu 200 tỷ đồng nhưng ngay năm sau, con số đó đã tăng lên đến 1.600 tỷ đồng. Bằng việc tạo ra doanh số không có thực đó, Công ty Hồng Trang được Hội đồng tín dụng ngân hàng phê duyệt xếp hạng AA. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được hưởng chính sách ưu tiên rất lớn khi ký kết các hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh thanh toán.
Lợi dụng hợp đồng mua bán thép với Công ty Gang thép Thái Nguyên - CN Hà Nội (thông qua 2 pháp nhân), thư bảo lãnh và hợp đồng tín dụng với BIDV Tây Hà Nội, Vietcombank, hai vợ chồng Đạt đã mua, rồi nhận đủ 32.984 tấn thép. Ngày sau đó, Đạt và Nhung đã nhanh chóng bán hết, thu tiền về nhưng lại không thanh toán tiền mua bán hàng hóa.
Với thủ đoạn đó, vợ chồng Đạt đã chiếm đoạt tổng cộng 99,67 tỷ đồng của các bị hại (trong đó, 69,67 tỷ đồng là tiền bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng và 30 tỷ đồng là tiền mua bán hàng hóa với Công ty Gang thép Thái Nguyên).
Theo hồ sơ vụ án, để xảy ra vụ án này, có phần trách nhiệm của hàng loạt cán bộ, nhân viên Công ty Gang thép Thái Nguyên - CN Hà Nội. Cụ thể là cựu cán bộ Trần Văn Song với tư cách là tổ trưởng tổ bán hàng đã làm giả các tài liệu xin cấp hàng từ công ty mẹ bằng phương thức lập khống các số liệu trên cơ sở các bản fax cũ xoay quanh việc mua bán hàng.
Với hình thức tương tự, cựu Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp và Giám đốc CN Hà Nội, Nguyễn Việt cùng Dương Bá Hòa đều không thẩm tra, xem các tài liệu do Song cung cấp nhưng vẫn tiến hành ký kết các hợp đồng mua bán sắt thép đối với các công ty của vợ chồng Đạt.
Hậu quả, CN Hà Nội, thuộc Công ty Gang thép Thái Nguyên đã bán hàng hóa vượt quá giá trị bảo lãnh của ngân hàng, gây thất thoát số tiền rất lớn.
Sau nhiều ngày xét xử, căn cứ vào toàn bộ hồ sơ vụ án, các tình tiết liên quan cũng như diễn biến tại phiên tòa, HĐXX TAND TP Hà Nội đã quyết định chuyển tội danh cho vợ chồng bị cáo Nguyễn Quốc Đạt, Nguyễn Thị Hồng Nhung từ tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” sang tội “Sử dụng trái phép tài sản”. Tòa tuyên phạt hai vợ chồng bị cáo Đạt 4 năm 6 tháng tù; Nhung 4 năm 1 tháng 7 ngày tù (bị cáo Nhung đã chấp hành xong hình phạt tù).
Các bị cáo nguyên là lãnh đạo, cán bộ CN Công ty CP Gang thép Thái Nguyên tại Hà Nội gồm: Trần Văn Song lĩnh án 42 tháng tù về tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng”; Dương Bá Hòa và Nguyễn Việt cùng lĩnh mức án 30 tháng tù (cho hưởng án treo) về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.