"Nghị định 163 đã tạo hành lang pháp lí thông thoáng hơn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Sự gia tăng từ cả phía cung và phía cầu khiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trở lên sôi động hơn bao giờ hết", chuyên gia Công ty CP Chứng khoán SSI (SSI Research) nhận định.
Trong báo cáo về thị trường trái phiếu doanh nghiệp 8 tháng đầu năm, SSI nhấn mạnh chính ngân hàng thương mại là nhóm phát hành trái phiếu lớn nhất thị trường, đồng thời, đây cũng là nhóm có tỉ lệ phát hành thành công nhất.
Theo SSI Research, tổng lượng chào bán trái phiếu doanh nghiệp 8 tháng đầu năm là 129.016 tỉ đồng và lượng phát hành là 117.142 tỉ đồng. Tỉ lệ phát hành thành công toàn thị trường đạt 90,8%, quy mô thị trường tăng mạnh lên mức 10,2% GDP.
10/11 ngân hàng thương mại bán hết 100% lượng trái phiếu chào bán trong 8 tháng đầu năm. (Ảnh: Thanh Niên).
Sở dĩ có sự dịch chuyển các doanh nghiệp từ kênh huy động tín dụng ngân hàng sang kênh phát hành trái phiếu là do các chính sách từ Ngân hàng Nhà nước, như giảm tỉ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, giới hạn cho vay với 1 khách hàng không quá 15% vốn tự có, điều chỉnh hệ số rủi ro với cho vay bất động sản…
Thống kê của SSI cho biết ngân hàng thương mại là chủ thể phát hành lớn nhất, chiếm đến 47,9%, tương đương tổng giá trị phát hành là 56.060 tỉ đồng.
Đứng thứ hai là các doanh nghiệp bất động sản, với việc phát hành 36.946 tỉ đồng, chiếm 31,5%. Các doanh nghiệp phát triển hạ tầng phát hành 9.207 tỉ đồng (chiếm 7,9%).
Đứng cuối bảng phát hành trái phiếu 8 tháng đầu năm là các định chế tài chính phi ngân hàng, với việc phát hành 4.423 tỉ đồng, chiếm 3,8%. Còn lại là các doanh nghiệp khác.
Đáng chú ý, ngân hàng thương mại cũng là nhóm có tỉ lệ phát hành trái phiếu thành công nhất, với tỉ lệ gần như tuyệt đối, lên đến 99,6%, ngoại trừ trường hợp SeABank. Ngân hàng này có 2 lô trái phiếu ngày 8/5 và 19/6/2019 lần lượt là 1.000 tỉ và 900 tỉ đồng nhưng không bán hết.
Ngân hàng thương mại dẫn đầu về phát hành trái phiếu 8 tháng đầu năm. (Nguồn: SSI - Đồ hoạ: Quốc Minh).
10 ngân hàng thương mại còn lại đều bán hết 100% lượng trái phiếu chào bán.
Thống kê của SSI cũng cho biết nhóm 5 ngân hàng phát hành trái phiếu nhiều nhất 8 tháng đầu năm, với có tổng lượng phát hành lên đến 45.860 tỉ đồng, chiếm tới 83% tổng giá trị phát hành.
Đứng đầu danh sách này là VPBank với 13.860 tỉ đồng, trong đó có 300 triệu USD trái phiếu quốc tế. Đứng thứ hai là HDBank với 11.600 tỉ đồng. Nhóm phát hành dưới 10.000 tỉ đồng trái phiếu có ACB với 7.850 tỉ, VIB với 6.450 tỉ và LienVietPostBank 6.100 tỉ đồng.
Theo báo cáo của SSI, ngoài khối nhà đầu tư trong nước, các công ty chứng khoán là bên mua lớn nhất. 8 tháng đầu năm, các công ty chứng khoán đã mua tổng cộng 29.447 tỉ đồng trái phiếu, chiếm 25,4% tổng lượng phát hành.
Ngoài nhà đầu tư trong nước, công ty chứng khoán là nhóm mua nhiều trái phiếu doanh nghiệp nhất 8T/2019. (Nguồn: SSI - Đồ hoạ: Quốc Minh).
Trong đó, các công ty chứng khoán đã mua đến 22.900 tỉ đồng trái phiếu do các ngân hàng thương mại phát hành, chiếm 40,8% tổng trái phiếu các ngân hàng này phát hành.
Chuyên gia SSI cho rằng lượng mua này của các công ty chứng khoán là quá lớn so với quy mô vốn. Trong khi đó, bản thân các công ty chứng khoán này cũng phải huy động trái phiếu để tăng vốn.
"Khả năng cao các công ty chứng khoán chỉ là trung gian, tham gia mua trên sơ cấp để bán lại trên thứ cấp chứ không phải là người mua cuối cùng", SSI nhận định.
Đồng thời, không chỉ đối với thị trường trái phiếu ngân hàng, mà 8 tháng đầu năm, chính các công ty chứng khoán cũng là nhân tố giúp thị trường trái phiếu bất động sản trở nên sôi nổi hơn, khi thu xếp, phát hành thành công cho hàng loạt "ông lớn" như Vingroup, FLC, Cáp treo Bà Nà…
Đồng thời, trong việc phát hành trái phiếu, hầu hết ngân hàng đều đưa ra lãi suất cố định và trả lãi hàng năm.
Lãi suất và kì hạn bình quân của nhóm ngân hàng là 6,75%/năm và 3,3 năm. Chỉ có 3.900 tỉ đồng trái phiếu nhóm này có lãi suất thả nổi, gồm 2.500 tỉ trái phiếu kì hạn 3 năm của ABBank có mức lãi suất năm đầu là 6,5%/năm và các năm sau bằng bình quân lãi suất tiết kiệm 12 tháng trả sau của 4 ngân hàng quốc doanh.
Tổng lượng phát hành của 5 ngân hàng này lên đến 45.860, chiếm tới 83% tổng giá trị phát hành. (Nguồn: SSI - Đồ hoạ: Quốc Minh).
1.400 tỉ trái phiếu lãi suất thả nổi còn lại là trái phiếu kì hạn dài 5-10 năm của BIDV, VietinBank, SeABank và VIB.
Đáng chú ý, theo SSI, báo cáo tài chính bán niên 2019 của 18 ngân hàng thương mại niêm yết trong 6 tháng đầu năm 2019 cho biết lượng trái phiếu của các tổ chức tín dụng mà các ngân hàng thương mại nắm giữ tăng thêm tới 56.400 tỉ đồng.
SSI cho rằng con số này khá tương đồng với lượng trái phiếu các ngân hàng thương mại đã phát hành.
Đồng thời, với lãi suất trung bình chỉ 6,72%/năm, tức là chỉ tương đương lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại lớn thì trái phiếu của các ngân hàng thương mại hầu hết không hấp dẫn với nhà đầu tư thông thường.
"Thêm vào đó, đối tượng mua chủ yếu là các công ty chứng khoán nên rất có thể các ngân hàng thương mại đã sở hữu chéo các trái phiếu của nhau. Mục đích là để gia tăng nguồn huy động và nâng cao tỉ trọng vốn trung và dài hạn, đối phó với yêu cầu giảm tỉ trọng vốn ngắn hạn cho vay trung vào dài hạn của Ngân hàng Nhà nước", chuyên gia nghiên cứu của SSI nhận định.
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật liên quan hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp.
Ngân hàng Nhà nước cho biết hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ồ ạt của các ngân hàng thương mại đang tiềm ẩn rủi ro, khi một số ngân hàng có số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản, và tiếp tục tăng nhanh.
Ngân hàng Nhà nước đặc biệt lưu ý việc đầu tư trái phiếu vào lĩnh vực xây dựng, bất động sản, bởi hiện thị trường bất động sản chưa phục hồi vững chắc, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn.
Trước tình hình này, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các các ngân hàng thương mại phải rà soát các quy định nội bộ, đảm bảo ban hành đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật, các quy định nội bộ liên quan đến hoạt động mua trái phiếu doanh nghiệp để hạn chế rủi ro.