Số phận éo le của người thương binh mù lòa
Năm 18 tuổi, chàng trai trẻ Trần Văn Thuận (nay đã ngoài 70 tuổi, trú tại Đông Quang, Đông Hưng, Thái Bình) lên đường nhập ngũ, để lại lời thề ước nơi quê nhà với cô thôn nữ tên là Vũ Thị Rần. Nhưng không may, năm 1971 (tức 5 năm sau), trong một lần đang làm nhiệm vụ trinh sát, vấp phải mìn của giặc Mỹ tại Đường 9 – Nam Lào, ông phải bỏ đi đôi mắt để giữ lại mạng sống.
“Từ lúc mù lòa, tôi không còn chút hy vọng nào vào cuộc sống. Tôi để mặc người ta khiêng mình đến các trung tâm điều dưỡng, hết ở Nghệ An lại về Thanh Hóa, rồi tới tận khu An dưỡng Hà Bắc. Tôi sợ cái cảnh phải đối diện với gia đình, người thân, và người yêu trong tình trạng mù lòa. Tôi muốn chạy trốn tất cả. Tôi đã nhờ đồng đội viết thư về cho Rần và khuyên bà ấy đi lấy chồng, đừng chờ tôi nữa mà không để lại địa chỉ.
Người thương binh mù lòa Trần Văn Thuận. |
Thế nhưng, một tuần sau bà Rần đã lặn lội vào tận Nghệ An, Quảng Trị rồi tìm được đến Trung tâm điều dưỡng thương binh Thanh Hoá để gặp tôi. Bà nói, dù chưa cưới, nhưng đã coi tôi là chồng và sẽ theo tôi đến bất cứ đâu, dù tôi đã bị mù hai mắt và mất 80% sức khoẻ, khiến tôi hết sức cảm động. Những ngày sau đó, bà lại theo tôi đi điều trị ở một số trung tâm điều dưỡng, Viện Quân y 108…”, ông Thuận xúc động kể lại.
Đến năm 1973, bà Rần đưa ông về quê, tại quê nhà hai người đã tổ chức đám cưới trong sự chúc phúc của gia đình, đồng đội. Nhưng rồi cuộc sống lại tiếp tục thử thách vợ chồng ông khi đứa con trai đầu tiên của ông bà bị dị tật. Đứa trẻ sơ sinh da trắng bệch, tóc vàng, hai mắt lồi ra, xanh lè, mũi lại đỏ hoe, mình mẩy mọc đầy lông lá.., một năm sau thì mất.
Hai năm sau, cậu con trai thứ hai tên là Trần Văn Tộ ra đời. Tộ bị bạch tạng, to lớn lừng lững nhưng chưa đến 30 tuổi đã già như một ông lão. Biết rằng mình đã bị nhiễm chất độc da cam trong những ngày chiến đấu, nhưng hai vợ chồng vẫn thử vận may. Rồi tiếp tục hai người con nữa ra đời trong nỗi thấp thỏm lo âu.
May mắn là cậu con trai tiếp theo Trần Văn Tiện (SN 1980) phát triển bình thường. Tuy nhiên, cô con gái thứ tư tên Điệp thì bị bệnh rất nặng. 29 tuổi rồi, Điệp vẫn lơ ngơ như một đứa trẻ, cười nói cả ngày.
Gia đình hiện tại của ông Thuận. |
Đến năm 2003, bà Rần bị phát hiện ung thư não. Ngày nhận hung tin ông Thuận thương vợ, gục xuống khóc tu tu. Mắt ông không còn, chỗ hốc mắt chảy ra hai dòng máu.
Thương chồng, thương con, bà Rần không đành ra đi, bà Rần chợt nghĩ đến cô em út Vũ Thanh Xuân. Lúc bấy giờ, bà Xuân đang biền biệt ở mãi tận Điện Biên. Cuộc đời bà Xuân cũng nhiều éo le, tủi cực. Rời quê từ năm 18 tuổi, bà Xuân lên Điện Biên theo tiếng gọi khai hoang, rồi làm việc ở nông trường trồng mía. Gắn bó với nông trường, lấy được tấm chồng, sinh được một cô con gái, thì chồng chết vì tai nạn giao thông. Bà Xuân rơi vào cảnh côi cút, bơ vơ nơi xứ lạ.
Thôi thì tình chị duyên em, bà Rần gọi bà Xuân về Thái Bình, nắm tay em gái trăng trối việc mai sau. “Em dọn về đây, thay chị chăm sóc anh và các cháu. Chị có chết cũng được nhắm mắt”, bà Rần chỉ nói được thế, rồi trút hơi thở cuối cùng.
"Tình chị duyên em" và cái kết có hậu
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, mới đó mà bà Rần đã ra đi được 14 năm và bà Xuân cũng trở thành “vợ” của ông Thuận từng ấy thời gian. Từ Điện Biên trở về với hai bàn tay trắng, bà trở thành “chủ nhân” của gia đình gồm một người đàn ông già mù lòa, một anh con bạch tạng, một cô con gái thi thoảng lại trợn mắt, ngã lăn ra đất, sùi bọt mép. Tất cả tài sản của gia đình là 4 sào ruộng và mấy luống rau ở đầu ngõ.
Để trang trải cuộc sống, bà Xuân nhận thêm 7 sào ruộng nữa rồi một mình đầu tắt mặt tối với hơn 1 mẫu ruộng. Bà còn tranh thủ nhận làm thuê cho người dân trong vùng để kiếm đồng ra, đồng vào. Cuộc sống tuy vẫn còn những khó khăn, nhưng đã bắt đầu có trái ngọt.
Ông Thuận và bà Xuân hạnh phúc bên nhau, tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn. |
Anh Tộ, anh Tiện đều đã lấy được vợ. Cô út vẫn ngây ngây ngô ngô, nhưng được cái bệnh động kinh đã giảm, không còn lăn đùng ra đất, sùi bọt mép nữa. Ông Thuận cũng vui vẻ hơn, thậm chí còn đỡ đần cho bà Xuân nhiều công việc gia đình.
“Nhiều người nghĩ rằng tôi dại khi gánh vác một gia đình với nhiều điều bất hạnh, nhưng bản thân tôi chưa bao giờ oán trách chị mình khi đặt trách nhiệm to lớn ấy lên vai tôi. Tuy có nhiều khó khăn, nhưng tôi luôn cảm nhận được tình cảm gia đình ấm áp từ ông Thuận và các con. Các con gọi tôi là “dì”, nhưng đều yêu quý tôi như mẹ. Đấy là niềm hạnh phúc mà không phải ai cũng có được.
Điều tôi hạnh phúc nhất là được nhìn thấy những đứa cháu lần lượt ra đời đều lành lặn, ngoan ngoãn và thông minh, học giỏi. Với tôi thế là mãn nguyện, hạnh phúc nhất rồi”, bà Xuân tâm sự.