Tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam 2021 - Phục hồi và phát triển bền vững ngày 5/12, TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, đại diện nhóm nghiên cứu của Thường trực Ủy ban Kinh tế và nhóm chuyên gia cho rằng kinh tế năm tới có thể chỉ tăng 4 - 4,5%. Lạm phát có thể tăng lên 3,4 - 3,7% (từ mức 2% năm 2021).
Dù vậy, một số cơ hội mới nằm ở một số lĩnh vực phát triển nhanh như thương mại điện tử, dịch vụ tài chính (chứng khoán, quỹ,...), logistics, kinh doanh trực tuyến, kinh doan thép,...
Tại Diễn đàn, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh tính cấp thiết ban hành chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát triển. Ông cho rằng dư địa mở rộng chính sách tài khóa vẫn còn và có phần thuận lợi hơn chính sách tiền tệ.
Cụ thể, thu NSNN năm 2021 nhiều khả năng đạt được 100% kế hoạch. Thâm hụt NSNN và nợ công được kiểm soát tốt giai đoạn trước. Quy mô hỗ trợ tài khóa (gần 3% GDP) còn khá khiêm tốn. Ngoài ra, các cân đối lớn (thâm hụt ngân sách/GDP, nợ công/ GDP, nghĩa vụ trả nợ/ thu NSNN, lạm phát,…) vẫn trong ngưỡng an toàn.
Bên cạnh đó, các cân đối lớn và cơ cấu lại nợ công thời gian qua tạo không gian chính sách để có thể duy trì mở rộng giai đoạn 2022-2023. Dư địa các gói hỗ trợ khác như giảm tiền điện, cước viễn thông,…vẫn còn.
Về dư địa chính sách tiền tệ, ông Lực nêu những thuận lợi như điều kiện thị trường tiền tệ, ngân hàng hiện nay khả quan hơn giai đoạn trước. Lạm phát ở mức khá thấp, tạo vị thế chủ động cho chính sách, theo đó có thể tăng cung tiền ở mức độ hợp lý, hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Kinh nghiệm thành công trong tái cơ cấu và xử lý nợ xấu trong các giai đoạn trước cũng giúp nâng cao năng lực, sức chống chịu của ngành ngân hàng.
Trong khi đó, lộ trình bao phủ vắc xin đạt kết quả tích cực, tạo điều kiện phục hồi kinh tế, tăng khả năng hấp thụ vốn và trả nợ của nền kinh tế.
Dù vậy, theo ông Lực, dư địa hạ lãi suất và tăng trưởng tín dụng còn nhưng không nhiều do lãi suất ở mức thấp trong vòng 20 năm, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn yếu. Lý do khác nữa là áp lực lạm phát ở mức cao ít nhất là trong năm 2022, một số nước trên thế giới bắt đầu thu hẹp nới lỏng định lượng và tăng lãi suất.
Ngoài ra, Việt Nam đang ưu tiên đảm bảo ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và đảm bảo an toàn, bền vững hệ thống các tổ chức tín dụng, nhất là bối cảnh nợ xấu gia tăng.
TS. Cấn Văn Lực thay mặt nhóm thực hiện đã đề xuất gói hỗ trợ bao gồm cả tài khóa, tiền tệ, an sinh xã hội cùng các chính sách lên tới 843.845 tỷ đồng, chiếm 10,38% GDP (giá trị công bố).
Trong đó, chính sách tài khóa chiếm lớn nhất trong cơ cấu với 8,34%, tương đương 678.395 tỷ đồng; chính sách tiền tệ 65.000 tỷ đồng (chiếm 0,8%), chính sách an sinh xã hội là 12.800 tỷ đồng (chiếm 0,16%), chính sách khác là 37.650 tỷ đồng (0,46%); đầu tư SCIC vào doanh nghiệp là 50.000 tỷ đồng (chiếm 0,6%).
Chuyên gia cho biết giá trị công bố là giá trị danh nghĩa ví dụ như các khoản giãn hoãn thuế, phí, đầu tư vào doanh nghiệp của SCIC,., sau đó người dân, doanh nghiệp phải trả lại. Còn giá trị thực tế là khoản thực chi là 445.760 tỷ đồng (chiếm 5,48% GDP), theo tính toán của nhóm nghiên cứu.
Về phạm vi của chính sách, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, các nhóm chính sách cần đảm bảo và nâng cao năng lực y tế; giảm chi phí, giãn, hoãn nghĩa vụ tài chính, tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của doanh nghiệp; an sinh xã hội.
Thời gian thực hiện của chính sách chủ yếu trong giai đoạn 2022-2023. Đối tượng trọng tâm của chính sách lao động và người sử dụng lao động.
Trong đó, phải đáp ứng một trong các tiêu chí cơ bản như có khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng, có khả năng phục hồi; hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, chưa thể bố trí nguồn thay thế, thuộc những lĩnh vực, dự án ưu tiên phát triển hướng đến bao trùm, bền vững (như y tế, giáo dục, nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cơ sở hạ tầng, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…). Các dự án cơ sở hạ tầng: liên kết vùng, trọng điểm, có tính lan tỏa; trong danh mục đầu tư công và đã chuẩn bị xong thủ tục đầu tư; dự án dở dang, thiếu vốn tạm thời cần bổ sung,...
Về chi tiết chính sách tài khóa, TS. Cấn Văn Lực đề xuất tiếp tục giảm thuế VAT, giảm phí bảo hiểm xã hội, thuế bảo vệ môi trường, giảm thuế, phí trước bạ ô tô trong nước, có bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, gói hỗ trợ lãi suất, cùng với đó là ứng trước các chi phí như tiền lương, phòng chống dịch cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đầu tư cơ sở hạ tầng thì cần số cụ thể cần rà soát; ưu tiên các dự án liên kết vùng, trọng điểm, có tính lan tỏa, trong danh mục đầu tư công và đã chuẩn bị xong thủ tục đầu tư; dự án dở dang, thiếu vốn tạm thời (cả vốn đối ứng dự án nguồn ODA) cần bổ sung.
Về chi tiết chính sách hỗ trợ, TS. Cấn Văn Lực nêu rõ, tiếp tục thực hiện Thông tư 14 của Ngân hàng Nhà nước; sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở (cả tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp) để hỗ trợ các tổ chức tín dụng duy trì lãi suất ở mức thấp; cho vay tái cấp vốn các tổ chức tín dụng để cho vay nhà ở.
Đồng thời, nghiên cứu giữ nguyên tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn; linh hoạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 13-14% trong năm 2022-2023;
Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, quy định để các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (gồm cả Fintech…) tham gia cho vay tiêu dùng an toàn, lành mạnh; góp phần kích cầu tiêu dùng lành mạnh); đề xuất phương thức luật hóa xử lý nợ xấu.
Ngoài ra, TS.Cấn Văn Lực cũng đề nghị đối với các chính sách an sinh xã hội cần triển khai hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động ngoại tỉnh đến làm việc tại 4 vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đào tạo nghề.
Cùng với đó là chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Nhấn mạnh nguồn lực và huy động nguồn lực thực hiện chính sách là điều quan trọng, TS. Cấn Văn Lực cho rằng cần phải chấp nhận thâm hụt ngân sách có thể tăng thêm 1 điểm % mỗi năm trong 2022-2023; đồng thời thực hiện tiết giảm chi phí, đẩy mạnh việc cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp Nhà nước, phát hành trái phiếu chính phủ, rà soát các quỹ ngoài ngân sách…
Khẳng định vai trò của tổ chức thực hiện, chuyên gia đề nghị cần hết sức quan tâm tháo gỡ các rào cản thể chế để tăng khả năng hấp thụ, mới đảm bảo các chính sách phát huy hiệu quảtác động chính sách, kiểm soát rủi ro.
Ngoài ra cần tính toán tác động và có giải pháp kiểm soát rủi ro các cân đối lớn (nợ công, thâm hụt NS, nghĩa vụ trả nợ…); kiểm tra, giám sát chống lãng phí, lợi ích nhóm…