Mở đầu phiên giao dịch ngày 18/8, giá thép thanh giao tháng 9 trên Sàn Thượng Hải ghi nhận mức tăng 0,4%, tương đương 13 nhân dân tệ, đạt 3.172 nhân dân tệ/tấn.
Trái ngược, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn Đại Liên giảm 0,2% (1,5 nhân dân tệ), xuống còn 791 nhân dân tệ/tấn.
Cùng thời điểm, trên Sàn Singapore-SGX, giá quặng sắt tháng 8 giảm nhẹ 0,1 USD, còn 101 USD/tấn.
Diễn biến giá thép kỳ hạn tháng 9 trên Sàn Thượng Hải. Nguồn: Barchart
Theo VNSTEEL, sản lượng thép thô của Nga trong tháng 7 năm 2025 duy trì ổn định so với tháng trước ở mức 5,7 triệu tấn, nhưng giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu từ tổ chức phân tích Chermet. Sản lượng thép cán giảm hơn 1% so với cả tháng trước và cùng kỳ, xuống còn 5 triệu tấn. Sản lượng ống thép giữ nguyên ở mức 900.000 tấn so với tháng trước nhưng giảm mạnh 11,6% so với cùng kỳ.
Sản lượng gang lỏng trong tháng 7 đạt 4,1 triệu tấn, không đổi so với tháng 6 nhưng giảm 3% so với cùng kỳ. Khối lượng quặng sắt giữ nguyên so với tháng trước, nhưng tăng 11,7% so với cùng kỳ lên 9,2 triệu tấn.
Trong 7 tháng năm 2025, Nga sản xuất 40,3 triệu tấn thép thô và 35,2 triệu tấn thép cán, đều giảm hơn 5% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng ống thép giảm 12,2% xuống còn 6,5 triệu tấn. Sản lượng gang lỏng giai đoạn này đạt 29,9 triệu tấn, gần như không thay đổi so với cùng kỳ năm trước, trong khi sản lượng quặng sắt tăng 3,2% lên 63,5 triệu tấn.
Xuất khẩu gang tăng mạnh đã góp phần đáng kể hỗ trợ sản xuất gang của Nga trong đầu năm 2025. Từ tháng 1 đến tháng 5, Nga đã xuất khẩu 1,6 triệu tấn gang, tăng 57% so với cùng kỳ, nhờ nhu cầu mạnh từ Thổ Nhĩ Kỳ và EU. Tuy nhiên, EU dừng mua ngay sau khi sử dụng hết hạn ngạch 700.000 tấn trong quý I. Năm 2024, hạn ngạch này cao hơn gần 40% và chỉ được sử dụng hết vào tháng 9.
Về phía Thổ Nhĩ Kỳ, ngành thép nước này đã tăng tiêu thụ gang sau khi giá thép phế tăng quá cao vào đầu mùa xuân. Thổ Nhĩ Kỳ đã đẩy mạnh mua gang từ Nga - tổng cộng 673.000 tấn trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 5, tăng 40% so với cùng kỳ năm trước, như một giải pháp thay thế cho giá thép phế tăng cao trong giai đoạn này. Theo Platts, giá thép phế HMS ½ 80:20 nhập về Thổ Nhĩ Kỳ tăng cao, đạt đỉnh 380-382 USD/tấn CFR vào tháng 3 trước khi giảm xuống dưới 360 USD/tấn từ tháng 4.
Ngoài ra, Nga cũng ghi nhận xu hướng các nhà máy trong nước thay thế thép phế bằng gang và sắt sắt hoàn nguyên nóng (HBI) nhằm cắt giảm chi phí và bù đắp cho lượng xuất khẩu sang EU bị mất.
Ảnh: Minh Thư
Thị trường giá thép xây dựng trong nước ngày 18/8 vẫn giữ mức ổn định khi các nhà sản xuất lớn chưa có điều chỉnh mới. Cụ thể, giá thép Hòa Phát hôm nay tiếp tục duy trì ở mức 13.230 đồng/kg đối với thép cuộn CB240 và 12.830 đồng/kg với thép thanh vằn D10 CB300.
Các thương hiệu khác như Việt Ý, Việt Đức và Việt Sing cũng không thay đổi mức giá. Thép Việt Ý vẫn niêm yết ở mức 13.130 đồng/kg (CB240) và 12.520 đồng/kg (D10 CB300); thép Việt Đức dao động từ 12.440 đồng/kg đến 13.050 đồng/kg tùy chủng loại; thép Việt Sing vẫn ổn định ở mức 13.130 đồng/kg (CB240) và 12.930 đồng/kg (D10 CB300).
Ở phân khúc cao hơn, Promina tiếp tục đứng đầu khi thép cuộn CB240 được niêm yết ở mức 14.440 đồng/kg và thép D10 CB300 ở mức 14.290 đồng/kg. Đồng thời, giá thép Miền Nam cũng nằm trong nhóm cao với mức giá 14.210 đồng/kg cho CB240 và 14.410 đồng/kg cho D10 CB300.