Theo Economist, nghiên cứu mới đây cho thấy, đại dịch Covid-19 có ảnh hưởng kéo dài hơn dự kiến đối với một số nền kinh tế nhất định.
Mô hình hóa bởi Oxford Economics đã làm sáng tỏ những tác động lâu dài của đại dịch. Nghiên cứu cũng dự báo những quốc gia chịu tổn thương về mặt kinh tế dài hạn nhất và các quốc gia có khả năng phục hồi sớm.
Các nhà nghiên cứu đã thu thập bằng chứng từ các cuộc khủng hoảng trong quá khứ, bao gồm cả Ebola và SARS, và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007- 2009, từ đó, tạo ra 31 thước đo độ dễ bị tổn thương của nền kinh tế, bao gồm các lĩnh vực như cấu trúc nền kinh tế, tăng trưởng GDP và niềm tin của người tiêu dùng.
Nhóm nghiên cứu dự báo rằng, về trung bình, các thị trường mới nổi sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn trong dài hạn so với các nền kinh tế tiên tiến. Yếu tố dự báo quan trọng nhất như sự sụt giảm tăng trưởng GDP trong năm nay có xu hướng trầm trọng hơn ở các nền kinh tế tiên tiến. Nhưng các yếu tố khác, chẳng hạn như sự cứng nhắc của thị trường lao động và giới hạn hỗ trợ tài khóa, đe dọa nhiều hơn đến các thị trường mới nổi.
Về dự báo tăng trưởng, giữa các nền kinh tế mới nổi và tiên tiến cũng có sự khác biệt rõ rệt. Cụ thể, Philippines và Ấn Độ có triển vọng tăng trưởng đặc biệt ảm đạm, trong khi Trung Quốc và Brazil dự báo sẽ hồi phục khá hơn.
Philippines được xếp hạng kém nhất về tổng thể trong nghiên cứu, phần lớn là do thị trường lao động của nước này có tỷ lệ thất nghiệp cao và nhiều lao động thiếu kỹ năng, đồng thời nền kinh tế nước này phụ thuộc chính vào du lịch. Trong số các nền kinh tế tiên tiến, các nhà nghiên cứu cho rằng Anh, Tây Ban Nha và Pháp sẽ mất nhiều thời gian để tăng trưởng trở lại hơn so với các nước Australia, Thụy Điển và Mỹ.
Xét trên khía cạnh khu vực, Trung Đông và Mỹ Latinh có triển vọng phục hồi kém nhất, tiếp đến là châu Phi. Bắc Mỹ là khu vực ít bị tổn thương nhất qua mức sụt giảm GDP tương đối thấp và nhờ các gói kích thích tài khóa mạnh mẽ.
Trong bảng xếp hạng của Oxford Economics, các nước châu Âu chiếm 10 vị trí thấp nhất đối với các nền kinh tế tiên tiến. Tuy nhiên, cũng có sự chênh lệch giữa các khu vực. Ví dụ, Pháp được xếp hạng là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trong nghiên cứu, phần lớn là do tăng trưởng GDP yếu và niềm tin của người tiêu dùng thấp, nhưng nước láng giềng Đức lại đạt điểm cao trên cả hai phương diện.
Nghiên cứu xác định lý do một số quốc gia sẽ phục hồi nhanh hơn những quốc gia khác, đồng thời cho thấy cách chính phủ có thể chuẩn bị tốt nhất cho những cú sốc trong tương lai. Ví dụ, một số thị trường mới nổi có thể xem xét đa dạng hóa du lịch, trong khi các nền kinh tế tiên tiến có thể giảm sự phụ thuộc vào ngành khách sạn để thúc đẩy tiêu dùng.
Nghiên cứu cũng đưa ra những lý do cho sự lạc quan. Cụ thể, trong các đợt dịch bệnh trước đây, tăng trưởng trung bình giảm 3 điểm phần trăm ở các nước bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng, nhưng tăng trưởng sau đó tốt hơn một chút so với mức trung bình 5 năm trước khủng hoảng. Nghĩa là, vẫn có thể hy vọng vào khả năng phục hồi kinh tế, tuy nhiên một số nước sẽ hồi phục nhanh hơn những nước khác.