18 bảo vật quốc gia được lưu giữ tại bảo tàng Lịch sử Quốc gia từ thời văn hóa Đông Sơn cách đây 2.000 năm, các thời đại của văn minh Đại Việt và các triều đại phong kiến cho tới khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
17 bảo vật quốc gia như một kho tàng thông tin quý giá về lịch sử, chứa đựng những thông điệp của quá khứ, thể hiện tinh hoa của nền văn hóa Việt Nam rất phong phú, đa dạng và giàu bản sắc. Các hiện vật đại diện cho các thời đại lịch sử, phần nào phản ánh diện mạo về đời sống, văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam.
1. Ấn vàng "Sắc Mệnh Chi Bảo"
|
Chiếc ấn vàng "Sắc Mệnh Chi Bảo" nặng 8,3kg, được chế tạo bằng chất liệu quý (vàng 10 tuổi), kỹ thuật đúc, khắc công phu, là hiện vật độc bản, có giá trị đặc biệt trong tổng số 85 chiếc ấn của hoàng đế và vương hậu triều Nguyễn. Chiếc ấn có niên đại vào năm 1827 dưới thời vua Minh Mệnh thứ 8. |
|
Ấn có núm hình rồng cuộn, mặt ấn đúc nổi 4 chữ triện Sắc mệnh chi bảo. |
|
Ấn dùng để ban cấp cáo sắc cho văn võ cùng phong tặng thần và người. Đây là hiện vật độc bản, biểu trưng cho quyền lực nhà Nguyễn, có giá trị đặc biệt trong sưu tập kim bảo triều Nguyễn. |
2. Ấn vàng "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo"
|
Ấn vàng "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo" được làm từ vàng có niên đại thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709). Ấn cao 6,3cm ; dày 1,10cm; cạnh 10,84cm x 10,84cm.
|
|
Ấn vàng "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo" do chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) cho đúc làm quốc bảo năm 1709. Thời vua Gia Long lên ngôi, bảo ấn được chọn làm báu vật truyền ngôi của vương triều Nguyễn. |
3. Ấn đồng "Môn Hạ Sảnh ấn"
|
Ấn được làm từ chất liệu đồng, có niên đại năm 1377 (đời Trần Duệ Tông). Ấn có kích cỡ: Cao 8,5cm; Dài 7,3cm; Rộng 7,3cm. Ấn được phát hiện năm 1962, tại xã Hương Giang (huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). |
|
Sảnh Môn hạ là một trong những cơ quan hành chính trung ương cao nhất thời Trần, do vua Trần Minh Tông đặt ra. Cơ quan này thân cận nhà vua, có nhiệm vụ giữ bảo ấn, truyền lệnh của vua tới các quan, nhận lời tấu lên vua và các công việc lễ nghi trong cung. Chức quan ở sảnh này đều do các quan đại thần đảm nhiệm. |
|
Môn Hạ Sảnh ấn được dùng để đóng trên những văn bản hành chính quan trọng của triều đình, từ đời vua Trần Phế Đế (trị vì 1377-1388) về sau. Cho tới nay, những phát hiện về ấn đồng các triều đại phong kiến Việt Nam không nhiều. |
4. Tượng hai người công nhau thổi kèn
|
Tượng được làm bằng chất liệu đồng, có niên đại từ thời văn hóa Đông Sơn, tượng có kích thước: Cao 8,5cm; Rộng 9,5cm. Được phát hiện tại xã Lạch Trường (huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). |
|
Tượng thể hiện một cách sinh động đời sống văn hóa phong phú của người Việt cổ, qua hình ảnh hai người đàn ông đóng khố, đầu chít khăn, đeo khuyên tai lớn chạm vai. Người cõng trong tư thế khom lưng, hai tay vòng ra sau ôm đỡ người ngồi trên lưng, hai chân như đang nhún nhảy theo điệu nhạc. Bức tượng cũng thể hiện kĩ năng đúc đồng điêu luyện của người Việt cổ. |
5. Bia điện Nam Giao
|
Bia được làm từ chất liệu đá, là một trong những di vật giá trị nhất sót lại của Đàn Nam Giao có niên đại từ năm 1679 (Thời Lê Trung Hưng) được phát hiện tại Hà Nội. |
|
Tấm bia phản ảnh rõ nét ý nghĩa lịch sử điện Nam Giao và lễ tế Nam Giao ở kinh thành Thăng Long, nghi lễ lớn nhất của các vương triều Lý - Trần - Lê để tế trời đất, cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. |
6. Mộ thuyền Việt Khê
|
Mộ thuyền Việt Khê được làm từ gỗ, là đồ tùy táng còn nguyên vẹn nhất từ thời văn hóa Đông Sơn. Có kích thước: Dài 4,76 mét; Rộng 0,67 mét; Điểm rộng nhất 0,77 mét. Nơi phát hiện ra mộ thuyền Việt Khê tại xã Việt Khê (huyện Thủy Nguyên, tỉnh Hải Phòng). |
|
Mộ chứa 109 đồ tùy táng gồm chủ yếu là các loại vũ khí, nhạc khí, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt bằng đồng. Mộ thuyền được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2013. |
7. Trống đồng Ngọc Lũ
|
Trống đồng Ngọc Lũ được làm bằng đồng, được ra đời từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách đây khoảng 2.000 - 2.500 năm.Trống có kích thước: Đường kính mặt: 79,3cm; Đường kính chân: 80cm; Cao: 63cm, được phát hiện tại làng Ngọc Lũ (huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). |
|
Đây là chiếc trống đẹp nhất, nguyên vẹn nhất và có hình dáng cân đối, hài hòa nhất trong những trống Đông Sơn đã phát hiện. |
8. Trống đồng Cảnh Thịnh
|
Trống đồng Cảnh Thịnh ra đời năm 1800 (thời Tây Sơn), có đường kính bề mặt là 49cm; Cao 37,4cm. Được phát hiện tại xã Ninh HIệp (huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội), đây là hiện vật độc bản trong phức hợp trống đồng Việt Nam. |
|
Hoa văn trang trí chính đúc nổi đề tài tứ linh mang ý nghĩa biểu trưng đất nước thái bình thịnh trị, xã hội an lạc. Giá trị đặc biệt khác của trống Cảnh Thịnh chính là phần tư liệu. Bài minh văn dài 222 chữ dẫn thuyết lý do, mục đích đúc trống, nói về người trong xã là bà Nguyễn Thị Lộc, vợ của Tổng Thái giám Giao quận công vào năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời vua Lê Ý Tông (1736) đã tập phúc góp công dựng chùa Linh Ứng. |
9. Trống đồng Hoàng Hạ
|
Trống đồng Hoàng Hạ có từ thời văn hóa Đông Sơn, kích thước: Đường kính mặt: 78,5cm; đường kính chân: 79,9cm; Cao:61,5cm. Được phát hiện tại làng Hoàng Hạ (Phú Xuyên, TP. Hà Nội). |
|
Mặt trống trang trí hình mặt trời 16 tia, giữa các tia trang trí hoa văn lông đuôi chim công, cảnh sinh hoạt, chèo thuyền, xử tử tù binh... Cùng với nhóm trống Ngọc Lũ, Sông Đà, Cổ Loa, trống đồng Hoàng Hạ phản ánh đời sống vật chất, tinh thần phong phú của cư dân Đông Sơn, thể hiện đỉnh cao nghệ thuật đúc đồng thời dựng nước đầu tiên của dân tộc. |
10. Bia Võ Cạnh
|
Bia Võ Cạnh làm từ chất liệu đá, có niên đại từ thế kỷ 3 - 4. Là một khối đá lớn, hình trụ đứng, có kích cỡ: Cao 320cm; Rộng 110cm; Dài 80cm. Bia được phát hiện tại làng Võ Cạnh (xã Vĩnh Trung, TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa). |
|
Đây là tấm bia có niên đại cổ nhất Đông Nam Á, đây là tấm bia cổ nhất còn lại của vương quốc cổ Champa. Bia khắc chữ Phạn cổ cho biết nhiều thông tin giá trị về lịch sử vương triều tiền vương quốc Nam Chăm. |
11. Thạp đồng Đào Thịnh
|
Thạp đồng Đào Thịnh được phát hiện bên bờ sông Hồng bị sạt lở, tại xã Trấn Yên (tỉnh Yên Bái) từ năm 1960. Thạp được làm bằng đồng có niên đại thuộc văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.000 đến 2.500 năm. Được sử dụng để cất trữ lương thực, của cải. |
|
Thạp Đào Thịnh là chiếc thạp có kích cỡ lớn và đẹp nhất trong những chiếc thạp ở thời kỳ Đông Sơn. Thạp có nắp hình nón, thân hình trụ. Toàn bộ thạp Đạo Thịnh có những chi tiết hoa văn trang trí với độ tinh mỹ sánh ngang với chiếc trống đồng Đông Sơn đẹp nhất. |
|
Điều đặc biệt trên chiếc thạp Đào Thịnh có gắn 4 khối tượng nam nữ đang trong tư thế giao hoan, phản ảnh tín ngưỡng phồn thực, khát vọng vạn vật sinh sôi của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. |
12. Chuông Vân Bản
|
Chuông chùa Vân Bản là chiếc chuông đồng cổ nhất, lớn nhất, uy nghi nhất của nền văn minh Đại Việt, có niên đại thế kỷ 13 -14 dưới thời Trần. Chuông có kích thước: Cao 125cm, núm cao 20cm, đường kính miệng 74cm. Được phát hiện tại biển Đồ Sơn (tỉnh Hải Phòng). |
|
Núm của chuông được tạo bởi hình ảnh 2 con rồng thời Trần với những họa tiết tính xảo, thân chuông khắc chữ Hán nói về những người có công khai phá sơn lâm, mở mang đất đai lập dựng chùa Vân Bản. Chuông là nguồn tài liệu quý để nghiên cứu lịch sử, văn hóa Phật giáo Việt Nam nói chung, thời Trần nói riêng. |
13. Bình gốm Hoa Lam vẽ thiên nga
|
Được khai quật từ một chiếc tàu đắm tại Cù Lao Chàm (thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) từ năm 1999 - 2000. Là chiếc bình lớn và nguyên vẹn nhất trong bộ sưu tập những cổ vật tìm thấy tại chiếc tàu đắm ở Cù Lao Chàm. Bình gốm Hoa Lam vẽ thiên nga có niên đại từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV), bình có kích thước miệng :23,8cm; kịch thước đáy 25,8cm; cao 56,5cm. Bình dáng cao, vai phình, thân thuôn nhỏ, hoa văn trang trí chia thành 7 băng phủ kín thân từ miệng xuống đáy. |
|
Băng hoa văn chủ đạo chiếm không gian lớn nhất ở giữa thân bình vẽ phong cảnh với 4 con thiên nga theo tích Phi, Minh, Túc, Thực: một con đang dang cánh bay, một con đang nghển cổ kêu, một con đang rúc đầu vào cánh ngủ và con còn lại đang kiếm ăn. Đây là cách chơi chữ và mượn hình biểu ý của người xưa nhằm gửi gắm ước nguyện được thăng tiến, tiền đồ xán lạn, giàu có, no đủ. |
|
Thời kỳ này được coi là thời phát triển huy hoàng nhất của gốm sứ cổ Việt Nam. |
14. Thống gốm hoa nâu
|
Thống được làm từ gốm hoa nâu, đây được cọi là tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo nhất trong những đồ gốm hoa nâu thời Trần được phát hiện. Thống có kích thước 57cm, đường kính miệng 35cm, đường kính đáy 34cm, được phát hiện tài đền Trần (tỉnh Nam Định) vào năm 1972. |
|
Thân thống chia thành 8 múi nổi, trên mỗi múi tô và khắc hình bông hoa sen màu nâu trên nền men trắng ngà. Với gốm có chất lượng cao, cốt gốm dày, men phủ kín, không bị nứt khi nung ở nhiệt độ cao đã chứng mình khá năng chế tác ở mức độ cao, có thể làm chủ nguyên liệu và nhiệt độ của các nghệ nhân làm gốm đường thời. Thống cũng là vật dụng của hoàng tộc triều Trần. |
15. Bút tích "lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh
|
Bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” được viết trên hai trang giấy kích thước 13,5cm x 20,5cm, đã ngả màu vàng theo thời gian. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được coi là văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân, lục lượng vũ trang ba thứ quân… |
|
Chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vào ngày 19/12/1946. |
16. Sách "Đường Kách Mệnh" của Nguyễn Ái Quốc
|
Đường Kách Mệnh tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) những năm 1925 -1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành bí mật và chuyển về nước. Đây được coi là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam.
|
17. Tác phẩm "Ngục Trung Nhật Ký"
|
Tập thơ Nhật ký trong tù gồm 133 bài thơ chữ Hán do Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây (Trung Quốc), 1942-1943. Tập thơ biểu hiện nhân - trí - dũng cốt cách của người chiến sĩ thi ca, mang giá trị nhân văn của người chiến sĩ Cộng sản suốt đời phấn đấu cho một lý tưởng cao đẹp: giành độc lập cho dân tộc, nhân dân hạnh phúc. |
18. Cây đèn hình người quỳ
|
Cây đèn hình người quỳ (Đồng). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm được quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012. Cây đèn thể hiện theo hình tượng một người đàn ông mình trần đóng khố tư thế đang quỳ, hai tay nâng đĩa đèn. Mình trần, thân dưới mặc khố. Tượng có khuôn mặt bầu, mắt mở to, miệng hơi mỉm cười, quanh môi có ria mép. Đầu tượng được gắn vương miện, tóc để chỏm. Hai vai và sau tượng gắn 3 cành chữ S, mỗi cành chữ S đỡ một đĩa đèn và gắn 1 hình người đang quỳ. |
|
Trên hai đùi và đằng sau người đàn ông có 4 nhạc công cũng ở tư thế quỳ, hai nhạc công đang thổi sáo. Cánh tay, cổ tay có đeo trang sức, tai đeo hoa hình khuyên to tròn. Trên vai và quanh bụng được trang trí những mô típ chuỗi hoa sen. Cây đèn hình người quỳ là một hiện vật độc bản, đại diện cho nghệ thuật cổ tiêu biểu, độc đáo vào thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn, có sự giao lưu với văn hóa Hán. Cây đèn thể hiện kỹ thuật đúc tài khéo và phản ánh thảm mỹ cảm quan về vũ trụ của cư dân cổ giai đoạn này. |