Việc tiếp cận dễ dàng với những thức ăn giàu năng lượng, thuốc thang và các tiện ích khác khiến con người hiện đại trở nên khoẻ hơn so với tổ tiên thời tiền sử, xét trên nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, đại dịch béo phì, tiểu đường, bệnh tim mạch cho thấy, cuộc sống hiện đại tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ.
Để tìm ra mối liên hệ giữa trầm cảm sau sinh với các vấn đề hiện đại như ăn dặm sớm, thiết hụt axit béo thiết yếu trong chế độ ăn, ít vận động thể chất, ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và tình trạng tách biệt khỏi các mối quan hệ thân thích, hai nhà nghiên cứu Jennifer Hahn-Holbrook và Martie Haselton đã xem xét kết quả các nghiên cứu thử nghiệm, nghiên cứu về dịch tễ học và các nền văn hoá khác nhau.
(Ảnh: Báo mới) |
Theo hai nhà khoa học Hahn-Holbrook và Hanselton, sự bất cân xứng giữa thế giới hiện đại với môi trường cổ xưa góp phần gây nên sự gia tăng của chứng trầm cảm sau sinh ngày nay.
Khoảng 13% phụ nữ trên toàn thế giới có các biểu hiện trầm cảm trong vòng 3 tháng đầu tiên sau sinh (O’Hara & Swain, 1996). Những triệu chứng này dẫn tới hệ quả là sự đổ vỡ đầy nguy hại trong cách ứng xử của người mẹ (Paulson, Dauber & Leiferman, 2006), vốn liên quan tới vấn đề hôn nhân và những thiếu hụt về sức khoẻ, xã hội, nhận thức ở trẻ (Burke, 2003). Chúng thậm chí còn khiến gia tăng nguy cơ tử vong ở trẻ sơ sinh (Mitchell và đồng sự, 1992). Xét trên những hậu quả đáng lo ngại này, chỉ riêng sự tồn tại của chứng trầm cảm sau sinh đã được coi là một bài toán tiến hoá - tại sao trầm cảm sau sinh lại tồn tại?
Bất cân xứng trong chế độ ăn
Mặc dù chế độ ăn kiểu săn bắn – hái lượm có sự khác biệt rõ rệt tuỳ theo từng vùng địa lý, văn hoá và mùa, các nhà khoa học vẫn phác thảo được bức tranh toàn cảnh về chế độ ăn của tổ tiên loài người thời kỳ tiền nông nghiệp, thông qua phân tích hoá học dấu tích xương người và các đợt khai quật khảo cổ học.
Kết quả, chế độ ăn của loài người thời kỳ tiền nông nghiệp bao gồm thịt sống (chiếm khoảng 30% lượng calo), các loại thân củ giàu tinh bột (chiếm khoảng 30% lượng calo) và trái cây, rau tươi theo mùa (chiếm khoảng 30% lượng calo – theo Eaton, 2006). Chế độ ăn này có xu hướng giàu hơn các vi chất, chất xơ và axit béo thiết yếu so với chế độ ăn phương Tây ngày nay, mặc dù không hẳn đã tốt hơn nếu xét trên mọi mặt, ví dụ tình trạng thiếu hụt lương thực và hạn chế về calo tương đối phổ biến thời đó. Cuộc cách mạng nông nghiệp 10.000 năm trước đã trao cho con người điều kiện để trồng và tích trữ những ngũ gốc giàu năng lượng với số lượng lớn.
(Ảnh: Sohu) |
Chế độ ăn hiện đại đã thay thế những thực phẩm giàu vi chất và dễ bị hư hỏng bằng các loại ngũ cốc (Eaton, 2006). Mô hình này giúp các nhà nghiên cứu đi tới kết luận rằng, loài người hiện đại ăn uống quá nhiều nhưng lại không đủ chất (Gluckman & Hanson, 2006).
Bất cân xứng trong nuôi con sữa mẹ
Nuôi con sữa mẹ là thích nghi của động vật có vú thời cổ đại, giúp thay đổi rõ rệt hồ sơ hormone ở giống cái theo các cách hỗ trợ khả năng thích nghi sau sinh của con mẹ. Tuy nhiên, tỷ lệ nuôi con sữa mẹ ngày nay giảm đi rất nhiều so với trước đây. Nghiên cứu hoá thạch tiền sử cho thấy, trẻ sơ sinh thuở đó được bú sữa mẹ trong 1,5 năm đầu đời và chỉ ăn dặm trong khoảng thời gian 2-4 tuổi. Trong khi đó, vào năm 2011, chỉ có 49% trẻ sơ sinh ở Mỹ được bú mẹ hoàn toàn tới 6 tháng. Khoảng 20% các bà mẹ chưa từng cho con bú. Liệu thay đổi đáng kể này trong việc nuôi con sữa mẹ có ảnh hưởng tới tỷ lệ trầm cảm sau sinh?
(Ảnh: Sheknows) |
Thật bất ngờ khi có quá ít nghiên cứu trực tiếp trả lời câu hỏi này. Nhưng nhiều tác dụng của nuôi con sữa mẹ cho thấy ảnh hưởng của việc này đối với chứng trầm cảm sau sinh là rất tích cực. Ví dụ, cho con bú mẹ giải phóng hormone oxytocin và prolactin – có tác dụng giảm lo âu và hạn chế triệu chứng trầm cảm sau sinh.
Nghiên cứu thử nghiệm ở chuột và những nghiên cứu tương ứng ở người cũng chỉ ra rằng, so với loài không cho con bú, các bà mẹ nuôi con sữa mẹ giảm phản ứng viêm với stress. Hơn thế, cho con bú còn liên quan tới giảm các vấn đề sức khoẻ ở cả mẹ và bé về lâu về dài, từ đó giúp sức khoẻ tinh thần người mẹ trở nên tốt hơn, tích cực hơn.
12 nghiên cứu liên lĩnh vực khác cũng phát hiện thấy, triệu chứng trầm cảm xuất hiện ít hơn ở những phụ nữ cho con bú mẹ với những người chỉ cho con bú bình. Từ dữ liệu liên quan, có thể rút ra kết luận rằng, nuôi con sữa mẹ mang lại những lợi ích cho sức khoẻ tâm thần, từ đó, dẫn tới một giả thuyết hợp lý khác là: những phụ nữ bị trầm cảm thường là những người ít cho con bú.
Mới đây, 2 nghiên cứu dài hạn đã được tiến hành, nhằm xác nhận xem, liệu nuôi con sữa mẹ có giúp dự đoán giảm nguy cơ trầm cảm hay không. Theo đó, mẹ cho con bú số lần ít hơn mỗi ngày khi trẻ 3 tháng tuổi và cho con ăn dặm trước khi trẻ 6 tháng tuổi giúp dự đoán nguy cơ bị trầm cảm sau sinh giai đoạn sau này cao hơn. Như vậy, có thể thấy, tỷ lệ mắc trầm cảm sau sinh có thể bắt nguồn một phần từ việc người mẹ phải đối mặt với những thách thức khi sinh nở và nuôi con, trong khi lại không nhận được lợi ích tâm lý tích cực từ việc cho con bú mẹ hoàn toàn.
(Ảnh: Sohu) |
Bất cân xứng trong vận động thể chất
Con người hiện đại chắc chắn tập luyện ít hơn so với tổ tiên xa xưa. Phân tích dựa trên 5 thử nghiệm ngẫu nhiên cho thấy, can thiệp bằng tập luyện giảm tỷ lệ mắc trầm cảm sau sinh, so với các biện pháp điều trị không vận động khác hoặc các hỗ trợ từ phía xã hội.
Nguồn vitamin D tổng hợp chủ yếu ở người là qua tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Nhưng con người hiện đại ngày càng xa rời điều đó. Hậu quả, thiếu hụt vitamin D trở thành vấn nạn. 18% phụ nữ mang thai ở Anh, 25% ở Các vương quốc Ả rập Thống nhất, 42% ở Bắc Ấn Độ, 61% ở New Zealand, 45% phụ nữ Mỹ-Phi ở Mỹ và 60-84% phụ nữ không phải người phương Tây ở Hà Lan bị thiếu hụt vitamin D. Tình hình càng trở nên nghiêm trọng do nhu cầu dinh dưỡng trong thai kỳ và giai đoạn cho con bú, dẫn tới sự bùng nổ bệnh còi xương ở một số trẻ sơ sinh bú mẹ tại Mỹ.
Vitamin D tác động tới hệ miễn dịch bằng cách kích hoạt phản ứng chống vi trùng, giúp ức chế viêm. Do đó, thiếu hụt vitamin D trong thai kỳ làm tăng nguy cơ bị viêm và mắc bệnh truyền nhiễm ở mẹ, từ đó dẫn tới nguy cơ trầm cảm sau sinh.
(Ảnh: Annie Tao) |
Các gia đình thời săn bắn – hái lượm sống theo các nhóm thân thích, ở đó, ông bà, cô dì, chú bác và họ hàng lớn tuổi hơn hỗ trợ cho các ông bố, bà mẹ và con cái họ. Ngược lại, trong thế giới phương Tây, các gia đình hạt nhân thường sống cách xa họ hàng thân thích tới hàng trăm hoặc hàng ngàn dặm.
Không những thế, gia đình phương Tây có ít con hơn, độ tuổi gần nhau hơn, khiến việc anh/chị/em có thể giúp đỡ lẫn nhau bị hạn chế và người mẹ buộc phải chăm sóc nhiều trẻ nhỏ tầm tuổi nhau cùng lúc. Một phân tích quy mô lớn chỉ ra rằng, hỗ trợ xã hội yếu kém hoặc thiếu vắng hoàn toàn là một trong những yếu tố giúp dự báo tốt nhất nguy cơ trầm cảm sau sinh. Do đó, việc chuyển đổi từ gia đình đa thế hệ sang gia đình hạt nhân quy mô nhỏ hơn có thể tác động tới khả năng người phụ nữ đối phó với việc nuôi dạy con.
Người trông trẻ, người giúp việc, trường mầm non có thể giúp cung cấp giải pháp chăm sóc trẻ cho những gia đình hạt nhân nhỏ. Tuy nhiên, chúng lại khá đắt tiền và không thay thế được hoàn toàn sự hỗ trợ tinh thần từ gia đình - vốn đóng vai trò quan trọng trong khả năng ứng phó với trầm cảm sau sinh của người phụ nữ.