Dự báo sản lượng cà phê thế giới năm 2020 - 2021 tăng 9,1 triệu bao (60 kg) so với năm trước lên mức kỉ lục 176,1 triệu bao. Brazil dự kiến sẽ chiếm phần lớn sản lượng khi vụ cà phê arabica bước vào năm sản xuất chính của chu kì sản xuất hai năm một lần.
Xuất khẩu trên thế giới cũng tăng, chủ yếu dựa vào xuất khẩu của Brazil. Dự trữ cuối năm dự kiến sẽ tăng lên mức cao nhất trong 6 năm do sản xuất vượt xa tiêu thụ. Giá cà phê, được đo lường bởi Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), ổn định trong vài tháng qua, trung bình đạt 1,04 USD/pound vào tháng 5.
Sản lượng cà phê arabica của Brazil dự báo tăng 6,8 triệu bao lên tới 47,8 triệu bao. Điều kiện thời tiết thuận lợi ở hầu hết các vùng sản xuất chính hỗ trợ cho việc ra hoa và đậu quả, từ đó mang lại năng suất cao.
Ngoài ra, phần lớn các khu vực sản xuất bước vào năm sản xuất chính của chu kì hai năm một lần. Phần lớn vụ thu hoạch cà phê arabica bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 6 và chất lượng của vụ mùa dự kiến sẽ tốt hơn vụ thu hoạch trước.
Sản xuất cà phê robusta dự kiến tăng 1,8 triệu bao lên mức kỉ lục 20,1 triệu bao. Lượng mưa dồi dào giúp sản lượng tăng cao ở 3 bang sản xuất chính là Espirito Santo, Rondonia và Bahia.
Ngoài ra, việc mở rộng giống cây vô tính và cải thiện các kĩ thuật quản lí cây trồng dự kiến sẽ giúp tăng lợi nhuận trong năm nay. Phần lớn vụ thu hoạch robusta bắt đầu vào tháng 4 và tháng 5.
Tổng sản lượng của cả cà phê arabica và robusta ước tính tăng 8,6 triệu bao lên mức kỉ lục 67,9 triệu, trong số đó một nửa sẽ được xuất khẩu, phần còn lại được dự trữ.
Sản lượng của Việt Nam dự báo đạt 30,2 triệu bao, giảm 1,1 triệu bao so với vụ mùa năm ngoái. Diện tích canh tác không thay đổi với hơn 95% sản lượng là cà phê robusta. Lượng mưa từ tháng 2 đến tháng 5 dưới mức trung bình ở nhiều khu vực trồng trọt chính trong khi cây cà phê cần tưới tiêu trong giai đoạn này để đảm tỉ lệ ra hoa và đậu quả.
Giá cà phê thấp khiến nông dân không mấy mặn mà trong việc chi tiêu mạnh tay trong việc tưới tiêu, do đó làm giảm năng suất.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo các chính sách duy trì diện tích cà phê ở mức xấp xỉ 600.000 ha và khuyến khích nông dân chuyển sang trồng các loại cây trồng khác, nơi điều kiện không thuận lợi cho canh tác cà phê.
Trong vài năm qua, một số nông dân đã bắt đầu trồng sầu riêng, xoài, bơ và cây ăn quả thay thế. Xuất khẩu cà phê dự báo không đổi ở mức 24 triệu bao trong khi dự trữ trong kho dự kiến vẫn tăng.
Sản xuất cà phê arabica của Colombia dự báo tăng 300.000 bao lên 14,1 triệu bao trong điều kiện phát triển thuận lợi và năng suất cao. Xuất khẩu, chủ yếu sang Mỹ và Liên minh châu Âu, dự báo tăng 400.000 bao lên 12,4 triệu bao. Với mức tiêu thụ cũng tăng, dự trữ cuối năm dự kiến sẽ giảm nhẹ.
Sản lượng của Indonesia ước tính giảm 400.000 bao xuống còn 10,3 triệu với sản lượng cà phê robusta thấp hơn. Lượng mưa thấp ở phía Nam Sumatra và Java, nơi chiếm khoảng 75% sản lượng robusta, khiến năng suất giảm.
Trong khi đó, điều kiện phát triển thuận lợi ở phía Bắc Sumatra giúp sản xuất arabica tăng 50.000 bao lên 1,3 triệu bao. Dự trữ cuối năm sẽ vẫn ở mức 2,6 triệu bao vì giá hiện tại không đáp ứng được mong muốn người dân. Xuất khẩu dự báo giảm 200.000 xuống 5,9 triệu bao.
Sản xuất tại Ấn Độ dự báo tăng 400.000 bao lên 5,3 triệu do thời tiết thuận lợi trong thời kì ra hoa và đậu quả sẽ cải thiện năng suất của cả cà phê arabica và robusta. Xuất khẩu có thể giảm 300.000 bao xuống còn 3,3 triệu bao trong khi dự trữ dự kiến sẽ tăng nhẹ.
Tổng sản lượng của Trung Mỹ và Mexico ước tính tăng 600.000 bao lên 18 triệu bao. Bệnh gỉ sét vẫn chưa chấm dứt trong khu vực và tiếp tục tác động đến sản lượng.
Dự kiến sản xuất của Honduras chiếm gần như toàn bộ sự tăng trưởng của khu vực, hồi phục 500.000 bao lên 6,1 triệu bao trong điều kiện phát triển thuận lợi cùng với việc tăng cường sử dụng phân bón để tăng năng suất. Honduras chiếm khoảng 1/3 sản lượng của khu vực.
Mexico và Guatemala chiếm khoảng 40% sản lượng của khu vực và tiếp tục thực hiện các chương trình thay thế cây bằng các giống chống gỉ. Sản lượng của Nicaragua dự báo giảm năm thứ ba liên tiếp do bệnh gỉ sét.
Tổng xuất khẩu của Trung Mỹ và Mexico dự báo sẽ ở mức 14,5 triệu bao. Hơn 45% xuất khẩu của khu vực này dành cho thị trường Liên minh châu Âu, tiếp theo là Mỹ với 30%.
Nhập khẩu của EU được dự báo tăng 2 triệu bao lên 49,5 triệu bao và chiếm gần 45% lượng nhập khẩu cà phê thế giới. Các nhà cung cấp hàng đầu bao gồm Brazil (29%), Việt Nam (23%), Colombia (7%) và Honduras (6%). Dự trữ cuối năm dự kiến tăng 1 triệu bao lên 14,5 triệu bao.
Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn thứ hai và dự báo nhập khẩu tăng 2 triệu bao lên 27 triệu bao. Các nhà cung cấp chính gồm Brazil (24%), Colombia (22%), Việt Nam (16%) và Honduras (6%). Dự trữ cuối năm dự báo tăng 500.000 bao lên 7 triệu bao.
USDA sửa đổi ước tính sản lượng thế giới trong năm 2019 - 2020 giảm 2,4 triệu bao xuống còn 166,9 triệu bao.
- Sản lượng của Honduras giảm 900.000 bao xuống 5,6 triệu bao với năng suất thấp hơn bởi thiệt hại do bệnh gỉ sét.
- Sản lượng của Mexico giảm 850.000 bao xuống 3,7 triệu do sản lượng không tăng như dự đoán.
- Sản lượng của Việt Nam giảm 925.000 bao xuống 31,3 triệu bao do diện tích trồng giảm.
Xuất khẩu cà phê cũng được điều chỉnh, giảm 3,4 triệu bao xuống còn 112 triệu bao.
- Xuất khẩu của Việt Nam giảm 1,5 triệu bao xuống 24 triệu bao do nguồn cung giảm.
- Xuất khẩu của Colombia giảm 700.000 bao xuống 12 triệu bao với sản lượng thấp hơn.
- Xuất khẩu của Honduras giảm 700.000 bao xuống 5,5 triệu bao.
Nhập khẩu thế giới cũng giảm 2,7 triệu bao xuống còn 109,7 triệu bao.
- Nhập khẩu của Mỹ giảm 1,2 triệu bao xuống 25 triệu bao do mức tiêu thụ và dự trữ giảm.
- Nhập khẩu của EU giảm 500.000 bao xuống 47,5 triệu bao.