Kể từ năm 2018, nhiều đại gia công nghệ đã nhận thấy bất lợi khi phụ thuộc vào nền sản xuất của Trung Quốc. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung khiến mức thuế cho nhiều sản phẩm làm ra tại Trung Quốc tăng lên. Đến năm 2020, dịch Covid-19 khiến sản xuất tại Trung Quốc đình trệ, ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn cung thiết bị của các hãng.
Đó là lý do nhiều gã khổng lồ công nghệ đang tìm cách thoát khỏi sự phụ thuộc Trung Quốc. Tuy nhiên, việc thay đổi sẽ không hề đơn giản.
"Nền sản xuất tại Trung Quốc đang được kết hợp chặt chẽ với chuỗi cung ứng của Mỹ hơn bao giờ hết", Sean Maharaj, Giám đốc điều hành công ty tư vấn AArete nhận xét.
Gần đây, có thông tin Google và Microsoft đang cố chuyển dây chuyền sản xuất điện thoại, laptop... từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á vì ảnh hưởng của dịch Corona.
Việt Nam và Thái Lan dự kiến sẽ là điểm đến của hai ông lớn công nghệ này.
Theo Nikkei, Google sẽ bắt đầu sản xuất phiên bản smartphone giá mềm Pixel 4a tại Việt Nam từ tháng 4. Hãng này dự kiến sẽ sản xuất mẫu cao cấp, có thể đặt tên là Pixel 5, tại Việt Nam vào cuối năm nay. Microsoft cũng có kế hoạch sản xuất dòng máy Surface tại Việt Nam từ nửa cuối năm.
Tại Thái Lan, Google đang chuẩn bị chuyển dây chuyền sản xuất các sản phẩm nhà thông minh như loa tích hợp trợ lí ảo.
Năm 2019, đã có thông tin đối tác sản xuất AirPods cho Apple chuyển dây chuyền về Việt Nam. Công ty này cũng yêu cầu các nhà cung ứng chuyển khoảng 15-30% sản lượng từ Trung Quốc về Đông Nam Á.
Vấn đề với những quốc gia Đông Nam Á này là việc chuyển đổi toàn bộ chuỗi cung ứng sẽ không hề dễ dàng. Trong quá trình đó, Trung Quốc vẫn đóng vai trò rất quan trọng.
Quá trình sản xuất một thiết bị bao gồm rất nhiều bước, trong đó chuỗi cung ứng linh kiện lả rất quan trọng. Mỗi thiết bị công nghệ hiện đại có hàng trăm linh kiện khác nhau.
Theo ông P.S Subramaniam từ công ty tư vấn Kearney, khoảng 40% thiết bị hoàn thiện được sản xuất tại Trung Quốc. Điều này có nghĩa là các khu vực khác trên thế giới vẫn có thể sản xuất, lắp đặt thiết bị hoàn thiện miễn là họ nhập hoặc tự sản xuất được đủ linh kiện.
Tuy nhiên, có tới 60% module linh kiện có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đây mới là vấn đề lớn nhất.
"Đây là điểm nghẽn bởi mọi sản phẩm đều cần có linh kiện mới lắp ráp được. Chuỗi cung này như một hệ sinh thái, sẽ rất khó rời đi", ông Subramaniam chia sẻ.
Tạo ra chuỗi cung ứng linh kiện ở ngoài Trung Quốc là quá trình rất lâu dài và mất thời gian.
"Một số dây chuyền có thể chuyển đi nhưng đều sẽ mất thời gian, và thêm nữa chẳng nước nào có nguồn cung lao động như Trung Quốc", John Harmon, nhà phân tích tại Coresight Research cho biết.
"Các đối tác Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản hoặc Hàn Quốc hiện sở hữu chuỗi cơ sở vật chất ở Trung Quốc sẽ phải đa dạng hóa nguồn cung. Điều này cũng sẽ làm chậm tiến trình chuyển đổi chậm đi một chút nữa", nhà phân tích Neil Shah từ công ty nghiên cứu thị trường Counterpoint Research chia sẻ.
Nhà phân tích Sean Maharaj ví sự chuyển đổi giống như quay đầu một chiếc máy bay: làm được, nhưng phải thật chậm rãi.
"Quá trình này giống như quãng thời gian cần thiết để máy bay quay đầu. Tôi nghĩ rằng nhiều công ty đã nghiêm túc tìm hiểu các chiến lược nhằm giảm thiểu rủi ro của chuỗi cung ứng", ông Maharaj nhận xét.
"Các tập đoàn có thể nhanh chóng chuyển dịch và tự đầu tư vào thời điểm họ muốn. Trong quá trình đó, họ cần hợp tác chặt chẽ với chính quyền địa phương cùng các doanh nghiệp để hiện thực hóa điều đó. Động lực từ các quốc gia như Hàn Quốc hay Việt Nam có thể thúc đẩy quá trình nhanh hơn cả những gì chúng ta nghĩ".
Dẫu vậy, việc chuyển dây chuyền sản xuất ra khỏi Trung Quốc có thể không phải là biện pháp hiệu quả để giảm thiểu rủi ro cho các công ty.
"Việc chuyển dịch vị trí của dây chuyền sản xuất có thể giúp đa dạng hóa rủi ro nhưng không phải là liều thuốc thần kì. Dịch Covid-19 đã lan rộng, và các quốc gia khác ngoài Trung Quốc cũng có thể trở thành nạn nhân mới của cuộc chiến thuế quan", Bryan Ma, Phó chủ tịch của IDC nhận xét.