![]() | Báo động tình trạng béo phì ở trẻ em |
![]() | Những đứa trẻ kỳ lạ nhưng có thật |
![]() | Trẻ bị bệnh tay chân miệng, cha mẹ cần làm gì? |
"HỘI CHỨNG TRẺ BỊ LẮC"
Hội chứng trẻ bị lắc (Shaken Baby Syndrome – SBS) hay đôi khi được gọi là chấn thương đầu kiểu ngược đãi (Abusive Head Trauma) đã được mô tả lần đầu tiên vào những năm 1970, nhưng được sự chú ý và nghiên cứu đặc biệt vào khoảng 10 năm trở lại đây.
![]() |
Các nghiên cứu cho thấy những tổn thương có thể xảy ra chỉ trong 5 giây rung lắc. |
Khi trẻ mới sinh, chúng ta rất nhẹ nhàng, khi bế thường đỡ đầu bé, nhưng từ khi biết lẫy, phụ huynh thường chủ quan hơn khi nghĩ trẻ đã tự nâng được đầu. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, não bé phát triển nhanh nhưng bộ xương, đặc biệt là xương sọ chưa phát triển hết nên rất dễ bị tổn thương, nếu chúng ta rung lắc rất dễ dẫn đến tình trạng chệch, gãy xương thậm chí ảnh hưởng đến các dây thần kinh để lại di chứng rất đáng tiếc về sau.
![]() |
Người lớn thường chủ quan hơn khi bế ẵm lúc trẻ đã bắt đầu biết lẫy. |
Ở trẻ em đặc biệt là trẻ sơ sinh có đầu lớn và nặng, chiếm đến 25% cơ thể, cổ rất yếu chưa chịu được sức nặng của đầu, trong khi xương sọ mềm, màng não mỏng, có khoảng trống giữa não và xương sọ. Khi bị rung lắc, xương sọ mềm và dẻo của trẻ không chịu được những lực này, lực rung sẽ chuyển tới não và làm tổn thương não, tăng áp lực nội sọ, dẫn đến phù và chảy máu trong não, gây ra tổn thương não vĩnh viễn.
Theo ước tính, ở Mỹ có khoảng 1000 – 1500 trẻ bị hội chứng “Hội chứng lắc ở trẻ em” mỗi năm và 25% số trẻ này tử vong vì những tổn thương do hội chứng này gây ra. Tuy nhiên, con số cụ thể có thể cao hơn nhiều bởi có những trường hợp không phát hiện được. |
RUNG LẮC NHƯ THẾ NÀO SẼ GÂY TỔN THƯƠNG?
Động tác bế và rung lắc của người lớn đối với trẻ ở các quốc gia có thể khác nhau và tùy theo tập quán sinh hoạt. Tất cả những động tác làm thay đổi tư thế trẻ nhanh đột ngột như: Trẻ đang năm được bế thốc dậy, nhấc bổng trẻ lên cao, xốc nách nhấc trẻ lên cao rồi hạ xuống... đều gây nguy hại đến trẻ.
![]() |
Tuyệt đối không đung đưa mạnh trẻ nhỏ, đặc biệt với trẻ dưới 6 tháng tuổi. (Ảnh:kyna) |
Tại Việt Nam, nhiều gia đình có thói quen ru trẻ ngủ bằng võng, thậm chí nghĩ rằng phải đưa võng mạnh thì bé mới thích. Khi trẻ luôn trong trạng thái rung lắc mạnh sẽ khiến thần kinh mệt mỏi. Do đó, dù đã đi vào giấc ngủ nhưng trẻ luôn mang tâm trạng run sợ. Đó là lý do vì sao khi bạn ủ trẻ ra, chúng thường có động thái giật nảy mình, khóc thét, hai bàn tay nắm chặt và cố bấu víu vào ai hoặc cái gì gần tầm với nhất. Nếu phải trải qua trạng thái này trong thời gian dài, chắc chắn não của trẻ sẽ chịu những ảnh hưởng không tốt. Theo các bác sĩ điều này rất nguy hiểm vì có thể khiến não trẻ bị tổn thương, thậm chí tử vong.
![]() |
Để trẻ nằm võng còn có thể ảnh hưởng đến cột sống, lồng ngực và sự phát triển cơ bắp của trẻ. (Ảnh: MarryBaby) |
Để phòng ngừa những nguy hiểm do hội chứng này, Bác sĩ Lê Thanh Hải, Phó Giám đốc BV Nhi Trung ương khuyến cáo, tuyệt đối không được đung đưa mạnh đối với trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ từ 0-6 tháng. Bởi những tổn thương không chỉ xảy ra trong thời điểm hiện tại mà có thể ảnh hưởng về lâu dài.
HỆ QUẢ KHI RUNG LẮC TRẺ
Những chấn thương ở cổ có thể sưng, phù nề, cứng cổ, nghẹo cổ về một bên, đầu khó quay qua quay lại.
Chấn thương mắt dẫn đến xuất huyết nhãn cầu, xuất huyết võng mạc, phù gai thị hậu quả làm giảm thị lực, mù …Ngoài ra có thể gây chấn thương cột sống, xương sườn.
Tùy theo mức độ tổn thương có thể làm trẻ chậm phát triển trí tuệ, rối loạn hành vi nói và nghe, động kinh, giảm khả năng nhận thức, giảm thị lực,... trong đó nhiều tổn thương kéo dài chỉ phát hiện được khi trẻ đã lớn. Trẻ trên 6 tuổi phải điều trị chuyên sâu, lâu dài, rất tốn kém.
![]() |
(Ảnh: hoidapbacsi) |
NHẬN BIẾT CÁC DẤU HIỆU TỔN THƯƠNG
Thường không nhìn thấy các triệu chứng của tổn thương từ bên ngoài. Tuy nhiên, bác sĩ nhãn khoa có thể phát hiện các chảy máu võng mạc mắt khi soi đáy mắt. Khi nghi ngờ, các bác sĩ nhi khoa có thể tiến hành chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ để tìm thương tổn.
![]() |
(Ảnh: choicungbe) |
– Trẻ bị kích thích mạnh, thay đổi hành vi thông thường, không tiếp xúc
– Đờ đẫn, lơ mơ, hoặc ngủ mê mệt, trương lực cơ giảm (cơ nhẽo)
– Da xanh tái, nhìn thấy rõ nhất vùng trán
– Ăn, bú khó, khó nuốt hoặc nôn không có lý do rõ ràng
– Khó thở, ngừng thở hoặc co giật
– Những dấu hiệu chấn thương cổ, sưng nề, cứng cổ, nghẹo về một bên, khó quay
XỬ TRÍ BAN ĐẦU KHI TRẺ BỊ CHẤN THƯƠNG
![]() |
Các bác sĩ có thể phát hiện thương tổn khi kiểm tra mắt, võng mạc (Ảnh: kidsplaza) |
- Gọi xe cấp cứu, không nên vận chuyển bằng xe thông thường.
- Không bế xốc trẻ lên, đừng cố lắc để làm cho trẻ tỉnh lại.
- Không cho trẻ ăn, bú.
- Nếu trẻ ngừng thở, phải tiến hành hô hấp nhân tạo.
- Nếu chấn thương cổ nên tránh xoay trẻ, cố định cổ.
- Nếu trẻ nôn và không có chấn thương cổ, cần xoay nhẹ đầu trẻ về một bên để tránh sặc và ngừng thở.
Khi trẻ có di chứng, cần tiến hành tập vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, dùng liệu pháp tâm lý liệu pháp, liệu pháp ngôn ngữ theo hướng dẫn của bác sĩ điều trị.
NHỮNG BIỆN PHÁP PHÒNG TRÁNH
Khi di chuyển trẻ, hãy giữ cổ ở tư thế tương đối cố định. Không ôm giữ trẻ khi cãi cọ. Càng không nên vì quá yêu trẻ mà rung lắc khi trẻ khóc nhiều. Đặc biệt, khi trẻ quấy khóc hoặc làm một việc gì đó không vừa lòng, người lớn không nên đánh vào đầu trẻ.
Nếu muốn đánh thức bé dậy, cũng đừng lay người bé. Hoặc khi chơi với bé mẹ cũng tránh lắc người bé mạnh quá hay tung bé lên và đón bắt. Việc lay hoặc lắc bé sơ sinh quá mạnh với bất kỳ mục đích nào cũng đều không tốt và có thể gây nguy hiểm cho bé.
Giáo dục kỹ lưỡng người giúp việc hay người chăm sóc trẻ, đừng bao giờ giả định rằng họ hiểu hết và biết cách xử thế khi trẻ khóc không thể dỗ được. Hãy cho phép họ được thông báo với bạn khi trẻ khóc, cũng đừng bắt buộc họ phải luôn luôn làm mọi cách để đứa trẻ ngừng khóc. Hãy chia sẻ những điều này cả với những người khác trong gia đình hay thường xuyên chăm sóc trẻ.
![]() |
Bế trẻ đúng cách nghĩa là yêu thương đúng cách. (Ảnh: afamily) |