Theo Wall Street Journal, các hộ gia đình trên khắp thế giới đang có xu hướng gia tăng tiết kiệm như là một cách để đối phó với những ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Tỉ lệ tiết kiệm ở nhiều quốc gia đã tăng vọt vào mùa xuân vừa rồi khi các chính phủ tung ra các gói kích thích kinh tế và phát tiền cho người dân.
Người tiêu dùng cũng cắt giảm chi tiêu do nguồn thu nhập bị ảnh hưởng vì doanh nghiệp đóng cửa cùng với những lo ngại về sự lây nhiễm của dịch bệnh.
Ngoài ra, người dân cũng cắt giảm chi phí và ít phải chi tiêu hơn khi làm việc tại nhà.
Điều đó khiến nhiều người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình và khá, giảm được các khoản nợ và tiêu nhiều tiền hơn khi các lệnh hạn chế được nới lỏng.
Việc người tiêu dùng sẵn sàng mở hầu bao có thể giúp giải phóng nhu cầu mua sắm đang bị dồn nén, qua đó thAustralia đẩy tăng trưởng mạnh trong ngắn hạn.
Ngược lại, việc người dân đẩy mạnh tiết kiệm sẽ kìm hãm đà phục hồi kinh tế ban đầu, nhưng người tiêu dùng sẽ có khả năng chi tiêu nhiều hơn trong dài hạn.
Dữ liệu cho thấy sự phục hồi nhanh chóng đang diễn ra tại một số quốc gia.
Tại Mỹ, tỉ lệ tiết kiệm cá nhân đã tăng lên mức cao kỉ lục 33,6% vào tháng 4, thời kì cao điểm của đợt phong tỏa, nhưng sau đó giảm xuống 14,1% vào tháng 8. Dù vậy, con số này vẫn cao hơn nhiều so với tỉ lệ 8,3% vào tháng hai, trước khi đại dịch xảy ra.
Điều này cho thấy dù các hộ gia đình chi tiêu nhiều hơn vào cuối mùa hè, nhưng họ vẫn chưa hoàn toàn quay lại thói quen cũ.
Tỉ lệ tiết kiệm tại một số quốc gia khác trên thế giới cũng cho thấy thách thức mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt trong việc thAustralia đẩy người tiêu dùng nới lỏng hầu bao.
Hồi đầu năm nay, chính phủ Nhật Bản đã phân phát khoảng 950 USD cho mỗi người dân. Trong một cuộc khảo sát của Viện Nghiên cứu NLI cho thấy, 50% cho biết họ sẽ để dành cho các chi tiêu hàng ngày (có thể bao gồm tiết kiệm) và một phần tư nói rằng họ sẽ tiết kiệm.
Stephen Halmarick, nhà kinh tế trưởng tại Commonwealth Bank of Australia cho biết: "Thực tế là rất khó để chi tiêu nhiều tiền. Sự tự tin cũng rất mong manh, không ai biết khi nào chúng ta mới có vắc xin và còn phải sống chung với virus bao lâu nữa. Vì vậy, việc tiết kiệm có ý nghĩa rất lớn".
Tỉ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình tại Australia cũng tăng lên 19,8% trong quí II, tăng mạnh so với 3,6% trong quí IV năm ngoái.
Trong khi đó, ở Canada, con số này là 28,2% trong quí II so với 3,6% vào cuối tháng 12/2019.
"Các nhà hoạch định chính sách có thể cố gắng khuyến khích, chứ không thể ép buộc chi tiêu", Tom Porcelli, nhà kinh tế trưởng tại RBC Capital Markets cho biết.
Kinh nghiệm của Australia trong cuộc khủng hoảng tài chính hơn một thập kỉ trước và một lần nữa trong đại dịch lần này cho thấy người tiêu dùng không phải lAustralia nào cũng hưởng ứng chính sách kích cầu của chính phủ.
Trong giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng vào cuối năm 2008 và đầu năm 2009, chính sách kích thích của chính phủ liên bang là giảm giá dịch vụ chăm sóc trẻ em, giảm thuế và phân phát 900 đô la Australia ( tương đương 654 USD) cho mỗi người dân.
Tuy nhiên, dù lãi suất bị cắt giảm và người dân có thêm thu nhập, tỉ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình vẫn tăng. Điều này phản ánh sự thay đổi cơ bản về hành vi, theo đánh giá của các quan chức Bộ Tài chính Australia năm 2012.
Việc tỉ lệ tiết kiệm gia tăng có thể có lợi. Theo đó, các hộ gia đình sẽ có nhiều tiền tiết kiệm hơn, đồng nghĩa với việc có cơ hội lớn hơn để xoay sở nếu có nhiều cú sốc kinh tế xảy ra.
Các khoản tiền gửi bổ sung có thể giúp tăng khả năng phục hồi của hệ thống tài chính thông qua việc giảm sự phụ thuộc của các ngân hàng vào nguồn vốn ngắn hạn.
Tuy nhiên, tỉ lệ tiết kiệm cao cũng có thể là một thách thức lớn đối với các chính phủ đang cố gắng tìm kiếm sự phục hồi dựa trên tiêu dùng.
Cơ cấu chi tiêu cũng là vấn đề đối với các ngành cụ thể, ví dụ như người tiêu dùng kìm hãm việc mua tài sản lớn như ôtô để dành chi tiêu cho những mặt hàng rẻ hơn.
Theo ước tính của Cục Thống kê Australia, khoảng 20% số tiền trợ cấp từ chính phủ trong thời gian đại dịch và 40% trợ cấp thất nghiệp bổ sung đã được người dân gửi tiết kiệm.
Trong khi đó, ở Mỹ, các khoản tiền cứu trợ cùng với các biện pháp như hoãn trả các khoản vay thế chấp và khoản vay học đại học khiến nhiều người dân phải trả bớt nợ.
David Rumbens, chuyên gia kinh tế vĩ mô và dự báo tại Deloitte Access Economics ở Australia nói: "Các gói kích thích được thiết kế không phải là để tiết kiệm. Chính phủ liên bang muốn tiền được chi tiêu để hỗ trợ nền kinh tế".
Ông cho biết phần lớn việc tiết kiệm là từ những cá nhân có thu nhập không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi đại dịch.
"Cải thiện niềm tin của người tiêu dùng và giảm các lệnh hạn chế sẽ là chìa khóa để khuyến khích họ giảm tiết kiệm và đẩy mạnh chi tiêu nhiều hơn", ông Rumbens nói.