Ảnh minh họa. |
Các quy định về việc tuyên bố mất tích được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2017).
Theo quy định tại điều 68 Bộ luật Dân sự 2015, một người bị tuyên bố là mất tích khi:
- Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố một người mất tích khi người đó đã biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết.
- Thời hạn 2 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng.
Nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
- Nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
- So với Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 bổ sung thêm quy định: Quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị tuyên bố mất tích cư trú cuối cùng để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Tòa án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ sau:
+ Người quản lý tài sản có quyền: Quản lý tài sản của người vắng mặt; trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt và được thanh toán các chi phí cần thiết trong việc quản lý tài sản của người vắng mặt.
+ Người quản lý tài sản có nghĩa vụ: Giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt như tài sản của chính mình; bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng; thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt bằng tài sản của người đó theo quyết định của Tòa án. Khi người vắng mặt trở thì phải giao lại tài sản cho người đó và phải thông báo cho Tòa án biết; phải bồi thường nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại.
Nếu Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.
Theo các quy định tại Điều 70 Bộ luật Dân sự 2015, quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án sẽ được hủy bỏ khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, nếu người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có yêu cầu, Tòa án sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó.
Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý.
Nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.
Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Bộ luật Dân sự 2005 chưa có quy định này, tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung nhằm hoàn thiện thủ tục pháp lý và nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho người được hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích.
Độc giả có vướng mắc về pháp lý xin gửi yêu cầu hoặc đề nghị tư vấn qua Email: thuandx@vietnammoi.vn hoặc xuanthuandong@gmail.com Ngoài ra độc giả tham khảo kiến thức luật tại: vietnammoi.vn Lưu ý: Những tư vấn theo đề nghị của người gửi câu hỏi qua Email, nội dung trả lời có giá trị tham khảo, phổ biến kiến thức, không dùng làm tài liệu tố tụng. |