"Guolaosi, chúng ta đang cố làm việc đến chết", một sinh viên trẻ mới tốt nghiệp từ một trường đại học có uy tín ở Bắc Kinh, Trung Quốc, phát biểu trong một cuộc đối thoại với Jonathan Holslag, giảng viên chính trị quốc tế tại Đại học Brussels, Bỉ.
Cô gái lý giải rằng hàng chục triệu sinh viên mới tốt nghiệp phải cạnh tranh để có công ăn việc làm, khi số lượng công việc tử tế chỉ khoảng vài triệu.
"Chúng tôi làm việc 11 giờ mỗi ngày, mất ba giờ di chuyển và sau đó đến một studio để ngủ vì vẫn không thể đủ tiền thuê nhà. Công việc của chúng tôi thậm chí còn không hề thú vị. Chúng tôi đang dần bị biến thành người máy", cô nói.
![]() |
Khảo sát cho thấy, hơn một phần việc làm ở châu Á đã không tạo được sự hài lòng cao cho người lao động. Ảnh: Reuters |
Theo SCMP, hiện tượng "guolaosi" không chỉ xuất hiện ở Trung Quốc. Nó còn có tên gọi khác là "karoshi" tại Nhật Bản, hay "gwarosa" tại Hàn Quốc, để ám chỉ tình trạng làm việc quá sức cho đến chết. Một số nghiên cứu đã cho thấy điều này xuất phát từ thực trạng khủng hoảng thị trường lao động đang xảy ra tại các nước châu Á.
Từ 2006 - 2015, 10 quốc gia đông dân nhất trong khu vực đã tạo ra khoảng 135 triệu việc làm mới. Con số này có vẻ lớn, nhưng so với số lượng lao động lại chẳng thấm vào đâu, bởi số người trong độ tuổi lao động (từ 16 đến 65 tuổi) đã tăng lên 245 triệu trong cùng giai đoạn này.
Nói cách khác, châu Á đã không có đủ việc làm để theo kịp với tốc độ tăng trưởng dân số. Tình trạng thiếu hụt việc làm lớn nhất được ghi nhận ở Ấn Độ, Trung Quốc và Pakistan, tương ứng với con số 79 triệu, 23 triệu và 9 triệu. Ở mức độ nào đó, ảnh hưởng của sự thiếu hụt đã được giảm nhẹ khi phụ nữ thường ở nhà. Tuy nhiên, diễn biến này chắc chắn khiến tình trạng thất nghiệp ở nhiều nước châu Á trở nên trầm trọng hơn.
Cuộc khủng hoảng thị trường lao động châu Á không những nằm ở vấn đề thiếu việc làm, mà thêm vào đó, nhiều công việc khó có thể đáp ứng đủ và theo kịp mức tăng chi phí sinh hoạt.
Ấn Độ là một ví dụ điển hình. Mức lương tối thiểu tại đây tăng gấp đôi từ năm 2006, nhưng giá tiêu dùng cũng tăng tương tự. Tại Indonesia, tiền lương hàng tháng đã tăng 85% kể từ năm 2006, giá sinh hoạt tăng 65%. Tại Philippines, tỷ lệ này là 71-49%, ở Hàn Quốc là 47-28%. Như vậy, với chi phí sinh hoạt cao hơn, mức lương thực tế hàng năm chỉ tăng dưới 2%.
![]() |
Trong khoảng 10 năm, các nước lớn ở châu Á đã không tạo đủ việc làm để theo kịp với tốc độ tăng trưởng dân số, khiến nhiều người thất nghiệp. Ảnh: AFP |
Trung Quốc là một ngoại lệ lớn với mức lương tăng nhanh hơn so với giá tiêu dùng. Tuy nhiên, nhiều người lao động Trung Quốc buộc phải rời khỏi các thành phố nhỏ để tới thành phố lớn, với chi phí sinh hoạt đắt đỏ hơn nhưng lại có nhiều việc làm mới.
"Bạn có thể mua tất cả mọi thứ ở đây, nhưng giá cả cực kỳ đắt. Thêm vào đó, chúng tôi còn phải trả tiền bảo hiểm, vận chuyển và nhiều loại dịch vụ khác. Trong khi ở quê, chi phí này ít hơn nhiều", một người nói.
Các cuộc khảo sát cho thấy hơn một phần ba số việc làm ở châu Á không hấp dẫn và khiến người lao động hài lòng. Trong đó, Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản là những nước có sự thỏa mãn với công việc rất thấp. Nhân công bị biến thành cỗ máy, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, tại nhà máy lắp ráp thiết bị điện tử và t quần áo.
Nếu thách thức chính trong nhà máy nhỏ là vấn đề an toàn, thì trong nhà máy lớn là sự đơn điệu. Con người tham gia vào quá trình sản xuất với một nhiệm vụ đóng khung duy nhất. Người lao động phải thậm chí phải đeo mặt nạ, nút bịt tai, mũi và quần áo bảo hộ cả ngày, không khác gì robot.
![]() |
Một nhân viên đang kiểm tra sản phẩm tại một nhà máy ở Thượng Hải. Ảnh: Xinhua |
Trong lĩnh vực dịch vụ, việc trở thành nhà thiết kế sáng tạo, kỹ sư công nghệ thông tin hoặc người viết quảng cáo với mức lương cao và có ô tô riêng, sống trong căn hộ tử tế là cơ hội có nhưng hiếm. Tuy nhiên, phần đông người lao động trong lĩnh vực này không được như vậy.
Jonathan Holslag cho biết ông từng thấy nhân viên Trung Quốc vẫn đang chuyển từng tập tài liệu, các nhân viêntiếp thị vẫn phải tìm kiếm địa chỉ email trên Internet để đưa vào danh sách gửi hàng loạt.
Đáp lại câu hỏi "tại sao họ không dùng phần mềm", một quản lý nhân sự ở Bắc Kinh giải thích rằng thuê sinh viên mới tốt nghiệp rẻ hơn mua phần mềm, chưa kể việc cập nhật phần mềm cũng khá tốn kém.