Theo quy định tại điều 188 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là "Bộ luật Hình sự năm 2015"), tội buôn lậu được chia thành 6 khoản. Trong đó khoản từ 1 đến 5 quy định về trách nhiệm hình sự đối với cá nhân, khoản 6 quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội.
Ngày 14/5, Tổng giám đốc Nhật Cường Mobile bị bắt để điều tra về tội Buôn lậu. (Ảnh: Võ Hải/VnExpress).
Cụ thể trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, cấu thành cơ bản của tội này gồm bốn mặt sau:
Việc buôn bán trái phép được thể hiện ở chỗ mua hoặc bán không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các quy định khác của Nhà nước về hải quan (ví dụ: Giấy phép nhập khẩu là máy móc, thiết bị dùng cho sản xuất nông nghiệp nhưng thực tế lại mua bán máy móc sử dụng cho tiêu dùng như tủ lạnh, xe gắn máy, ti vi…).
Trường hợp kinh doanh xuất nhập khẩu đúng giấy phép nhưng khai không đúng số lượng (khai ít hơn số lượng thực nhập) hoặc nhập vượt quá mức mà giấy phép xuất, nhập khẩu cho phép thì cũng bị coi là buôn lậu nhưng chỉ truy cứu trách nhiệm đối với phần chưa khai hoặc xuất nhập khẩu vượt mức cho phép.
Thủ đoạn của tội buôn lậu rất đa dạng. Có nhiều trường hợp người phạm tội móc nối với cơ quan Hải quan để nhập hàng không đúng với giấy phép. Một thủ đoạn buôn lậu thường gặp và cũng khó phát hiện, đó là, việc nhập hàng hoá núp dưới hình thức tạm nhập, tái xuất. Nhưng khi hàng đã nhập về rồi thì không xuất mà tiêu thụ ngay trong nước.
Có thể nói, những thủ đoạn buôn lậu mà người phạm tội thực hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội cũng như các chính sách của Nhà nước đối với việc xuất nhập khẩu.
Ngoài hành vi khách quan, đối với tội buôn lậu, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu băt buộc của cấu thành tội phạm như: Giá trị, số lượng hàng phạm pháp; địa điểm phạm tội. Nếu thiếu các dấu hiệu này thì không đủ căn cứ để xác định một hành vi buôn bán trái phép là phạm tội buôn lậu.
Về hậu quả, thiệt hại trực tiếp do hành vi buôn lậu gây ra là Nhà nước không kiểm soát được hàng hoá xuất nhập khẩu, gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Vì vậy, trong thực tiễn, các cơ quan điều tra và cơ quan tiến hành tố tụng không căn cứ vào hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra để định tội danh và quyết định hình phạt.
Khi xác định hậu quả do hành vi buôn lậu gây ra cần chú ý rằng, giá trị hàng hoá và sô lượng hàng hoá quy định tại khoản 1 của điều luật như: Hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng không có nghĩa là đó là hậu quả của tội phạm, mà đó chỉ là giá trị của vật phạm pháp.
Trường hợp dưới một trăm triệu đồng thì phải thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu hoặc một trong các hành vi sau:
Vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm; sản xuất, buôn bán hàng giả; sản xuất, buốn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, sản xuất buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giông cây trồng, kinh doanh trái phép; đầu cơ; trốn thuế hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại các điều sau đây của Bộ luật Hình sự: Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm; Tội sản xuất, buôn bán hàng giả; Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh …
Đồng thời cho đến thời điểm có hành vi buôn lậu bị phát hiện thì vẫn chưa được xoá án tích đối với việc phạm các tội nêu trên mà còn vi phạm về hành vi buôn lậu và không phải thuộc các trường hợp quy định tại các điều sau đây: Tội sản xuất trái phép chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý …
Đối với hàng cấm thì phải có số lượng lớn (theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền) hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu và một trong các hành vi quy định tại các điều trên hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại các điều luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm về hành vi buôn lậu nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các điều như nêu cụ thể ở trên.
Đối với vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá thì điều luật không quy định cụ thể mức tối thiểu giá trị vật phạm pháp, vì những vật phẩm loại này chứa đựng những giá trị tinh thần (vô giá) mà không thể tính được bằng tiền.
Người thực hiện hành vi buôn lậu là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới, thấy trước được hậu quả của của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Mục đích của người phạm tội là thụ lợi bất chính từ hành vi buôn lậu. Biểu hiện của mục đích thu lợi là người phạm tội tìm cách trốn thuế xuất nhập khẩu.
Hành vi này đã xâm hại đến trật tự quản lý việc xuất, nhập khẩu hàng hoá, tiền tệ, kim khí đá quý, di vật, cổ vật, vật phẩm thuộc di tích lịch sử.
Chính sách xuất, nhập khẩu của Nhà nước ta luôn thay đổi theo chính sách kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường, vì vậy việc xác định khách thể trực tiếp của tội buôn lậu có thể thay đổi tuỳ thuộc vào chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước.
Đối tượng tác động của tội buôn lậu là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá và hàng cấm. Khi xác định đối tượng tác động, nếu cần phải trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định.
Tội buôn lậu có 4 khung hình phạt tương ứng với 4 khoản (từ khoản 1 đến khoản 4)
- Khoản 1: Phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 300 triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm (tội ít nghiêm trọng).
- Khoản 2: Phạt tiền từ 300 triệu đồng đến 1,5 tỉ đồng hoặc phạt tù từ 3 năm đến bảy năm (tội nghiêm trọng).
- Khoản 3: Phạt tiền từ 1,5 tỉ đồng đến 5 tỉ đồng hoặc phạt tù từ 7 năm đến 15 năm (tội rất nghiêm trọng).
- Khoản 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm (tội đặc biệt nghiêm trọng).
Ngoài ra, điều 188 BLHS năm 2015 còn bổ sung thêm trường hợp phạm tội buôn lậu đối với pháp nhân thương mại, theo đó phạt tiền từ 300 triệu đồng đến một tỉ đồng nếu thực hiện hành vi tại khoản 1.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ một tỉ đồng đến ba tỉ đồng.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ ba tỉ đồng đến 7 tỉ đồng.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 7 tỉ đồng đến 15 tỉ đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 6 tháng đến 3 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Trên đây là ý kiến tư vấn về câu hỏi đặt ra từ một tình huống. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin được cung cấp.
Những tư vấn chỉ có giá trị tham khảo, phổ biến kiến thức, không dùng làm tài liệu tố tụng.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến độc giả chưa hiểu hết vấn đề hoặc/và có sự vướng mắc, thắc mắc, rất mong nhận được ý kiến phản hồi của độc giả gửi tới: hoidapphapluatvnm@gmail.com.