Trước hết, chúng ta cần phải nhìn lại 5 năm về trước, thời điểm năm 2014, tức chưa đầy một năm sau ngày VAMC được thành lập, là giai đoạn mà các tổ chức tín dụng (TCTD) bán nợ xấu dồn dập cho công ty này, nhằm hướng đến mục tiêu sớm kéo tỉ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành về dưới 3% theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Cụ thể, nếu như năm 2013 VAMC mới mua 37.100 tỉ đồng nợ xấu từ các TCTD, thì bước sang năm 2014 giá trị mua lên đến gần 96.500 tỉ đồng. Năm 2015 là giai đoạn cao điểm các ngân hàng bán nợ cho VAMC, do đây cũng là thời hạn được chỉ định phải kéo tỉ lệ nợ xấu về dưới 3%, với giá trị bán nợ gần 109.800 tỉ đồng.
Ba năm sau đó, việc bán nợ đã chậm lại, khi mục tiêu đã hoàn thành. Theo đó năm 2016, VAMC chỉ mua gần 42.200 tỉ đồng, 2017 là gần 32.400 tỉ và 2018 là hơn 30.900 tỉ.
Cũng cần biết rằng lượng nợ xấu bán cho VAMC trong giai đoạn 2013- 2014 để nhận về trái phiếu đặc biệt, hầu hết là ở kì hạn 5 năm.
Kể từ năm 2015, VAMC mới bước đầu phát hành các trái phiếu đặc biệt kì hạn 10 năm. Như vậy, năm 2019 cũng là thời điểm mà phần lớn lượng trái phiếu năm 2014 bước vào thời kì đáo hạn. Do đó, việc các TCTD phải tất toán với VAMC theo đúng thời hạn quy định cũng là điều bình thường. Vì vậy chúng ta mới thấy trong hai năm qua, số lượng ngân hàng tất toán nợ với VAMC ngày một nhiều hơn.
Mặc dù theo Thông tư 08/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số quy định về việc mua, bán và xử lí nợ xấu của VAMC ban hành vào năm 2016, cho phép các TCTD có thể gia hạn thời hạn của trái phiếu đặc biệt tối đa lên đến 10 năm, tuy nhiên quy định mới này chỉ áp dụng cho TCTD đang thực hiện phương án cơ cấu lại theo đề án đã được phê duyệt, hoặc TCTD gặp khó khăn về tài chính mà việc trích lập dự phòng rủi ro cho trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành, có thể dẫn đến lỗ trong năm tài chính.
Đáng lưu ý là với việc tất toán nợ đã bán cho VAMC đến hạn, và sử dụng luôn dự phòng đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt từ trước đến nay để xử lí rủi ro, thì đây được xem là của để dành cho các ngân hàng trong tương lai.
Do đó, không phải ngân hàng nào muốn gia hạn cũng được. Thực tế cho thấy, những ngân hàng nào đã trích lập dự phòng đầy đủ tỷ lệ 20% mỗi năm theo quy định trong suốt bốn năm qua, thì áp lực trích lập cho năm cuối cùng này không phải là quá lớn.
Do đó, không phải ngân hàng nào muốn gia hạn cũng được. Thực tế cho thấy, những ngân hàng nào đã trích lập dự phòng đầy đủ tỉ lệ 20% mỗi năm theo quy định trong suốt bốn năm qua, thì áp lực trích lập cho năm cuối cùng này không phải là quá lớn.
Vì vậy, các ngân hàng này có lẽ cũng không cần phải xin gia hạn, nhất là trong bối cảnh lợi nhuận của ngành ngân hàng đang chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trở lại trong suốt hai năm qua, do đó đủ nguồn lực để xử lí các khoản nợ bán cho VAMC đến hạn phải thanh lí.
Đáng lưu ý là với việc tất toán nợ đã bán cho VAMC đến hạn và sử dụng luôn dự phòng đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt từ trước đến nay để xử lí rủi ro, thì đây được xem là của để dành cho các ngân hàng trong tương lai. Cụ thể, thời gian tới nếu ngân hàng nào thu được các khoản vay VAMC trả về và cũng đã được xử lí rủi ro, thì phần nợ thu được đó sẽ góp thẳng vào lợi nhuận của các ngân hàng.
Bên cạnh việc phải thanh lí khi đến hạn, một số ngân hàng thời gian qua cũng chủ động tất toán trước hạn nợ đã bán cho VAMC nhằm mục tiêu sạch nợ tại VAMC. Khi tất toán trước hạn, các ngân hàng sẽ đứng trước hai lựa chọn: đưa lại về nội bảng hoặc xử lí rủi ro luôn và đem ra theo dõi ngoại bảng.
Tuy nhiên, với phương án xử lí rủi ro thì các ngân hàng cần phải trích lập dự phòng đầy đủ để có nguồn xử lí, việc này sẽ gây áp lực lên chi phí trích lập dự phòng hiện tại. Do đó, khả năng các ngân hàng sẽ đưa vào nội bảng trở lại, dù điều này có thể làm nợ xấu và tỉ lệ nợ xấu nội bảng gia tăng.
Tuy nhiên, với việc dư nợ cho vay những năm qua của các ngân hàng đã tăng trưởng mạnh, công tác thu hồi nợ xấu cũng có nhiều tích cực, nếu mua lại nợ xấu từ VAMC và để ở nội bảng, thì các ngân hàng cũng đã phải lường trước được khả năng vẫn phải giữ được tỉ lệ nợ xấu nội bảng không vượt mức quy định 3%. Cần biết rằng, trước đây việc bán nợ xấu sang VAMC là giải pháp để kéo tỉ lệ nợ xấu nội bảng xuống mức thấp dưới quy định, nhằm làm đẹp sổ sách.
Thật ra, việc mua lại trước hạn nợ đã bán cho VAMC có thể mang lại nhiều lợi ích hơn cho các ngân hàng. Thứ nhất, nếu vẫn để nợ xấu tại VAMC, định kì mỗi năm các ngân hàng phải trích lập chi phí dự phòng 20% giá trị trái phiếu đặc biệt đối với kỳ hạn năm năm và 10% đối với kì hạn 10 năm.
Áp lực chi phí trích lập như trên là khá lớn đối với một số ngân hàng đang có lợi nhuận khiêm tốn. Thay vì vậy, việc mua lại hay tất toán trước hạn nợ xấu bán cho VAMC sẽ giúp các ngân hàng có điều kiện, đánh giá, xem xét lại chất lượng khoản vay để đưa về nhóm phù hợp hơn.
Ngoài ra, việc sở hữu lại nợ xấu đã bán trước đây cũng tạo cơ hội cho các ngân hàng định giá lại tài sản bảo đảm theo giá thị trường mới nhất. Cần lưu ý phần lớn các khoản vay bán cho VAMC trước đây đều có tài sản bảo đảm là bất động sản. Với diễn biến thị trường nhà đất đã tăng mạnh trong ba năm qua, việc định giá lại có thể giúp nhiều ngân hàng giảm được chi phí trích lập dự phòng đáng kể.
Điều quan trọng hơn là với thực tế tình trạng xử lí nợ của VAMC đang khá chậm do nguồn lực bị hạn chế, thì việc mua ngược lại nợ xấu đã bán cho VAMC trước đây sẽ giúp các ngân hàng có thể chủ động xử lí các khoản nợ xấu này nhanh hơn, nhất là khi hàng loạt quy định về giải pháp xử lí nợ xấu đột phá đã được chính thức ban hành qua Nghị quyết 42 của Quốc hội từ tháng 7/2017.