Theo báo VietNamNet đưa tin, liên quan đến vụ án nghi phạm Nguyễn Trọng Tr. (SN 1988, xã Hòa Chính, huyện Chương Mỹ) xâm hại tình dục cháu V.N.Q. (SN 2009, trú cùng huyện), cơ quan công an huyện đã khởi tố nghi can và cho tại ngoại, dùng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.
Việc nghi phạm Trình được tại ngoại khiến gia đình nạn nhân và dư luận lo lắng việc người này có thể gây nguy hiểm cho xã hội.
Theo Thiếu tá Tống Quang Hiếu, Đội trưởng Đội cảnh sát hình sự (Công an huyện Chương Mỹ), việc để nghi phạm được tại ngoại đơn vị đã làm đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nghi phạm Nguyễn Trọng Tr. bị tạm giữ vào tối 24/2 (ngày xảy ra vụ việc), sau đấu tranh khai thác, trưa hôm sau y cúi đầu nhận tội, thừa nhận hành vi dâm ô bằng tay với cháu Q.
Đến ngày 6/3, cơ quan công an ra quyết định khởi tố Trình về hành vi dâm ô với trẻ em dưới 16 tuổi, cho tại ngoại và cấm đi khỏi nơi cư trú.
Nghi phạm trong lúc chở cháu bé (áo hồng) được camera nhà người dân ghi lại. (Ảnh: Cơ quan công an cung cấp).
Tại ngoại không phải là một thuật ngữ pháp lý. Tại ngoại là cách hiểu thông thường của mọi người đối với một người đang là đối tượng điều tra trong một vụ án hình sự nhưng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Điều kiện tại ngoại đối với bị can, bị cáo không được pháp luật quy định cụ thể.
Có thể dẫn chiếu sang điều khoản về các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Cụ thể, tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm.
- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can.
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn.
- Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội.
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 2 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
- Tiếp tục phạm tội.
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam.
Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết.
Ngoài ra, trong quá trình xét xử, bị can, bị cáo để được tại ngoại, bị can bị cáo phải được "bảo lãnh" hoặc "đặt tiền để bảo đảm" khi đáp ứng các điều kiện cụ thể của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về biện pháp bảo lãnh như sau:
Bảo lãnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lãnh.
Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lãnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lãnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lãnh thì có thể nhận bảo lãnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 2 người.
Cá nhân nhận bảo lãnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lãnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lãnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lãnh…
Bị can, bị cáo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp đặt tiền để bảo đảm theo quy định tại Điều 122 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 khi đáp ứng các điều kiện sau: bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có khả năng về tài chính,…
Căn cứ Điều 9 Bộ Luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, có 4 loại tội phạm:
Một là, Tội phạm ít nghiêm trọng, là loại tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm.
Hai là, Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 3 năm tù đến 7 năm tù.
Ba là, Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù.
Bốn là, Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Như vậy, theo Bộ luật Hình sự 2015, Tội phạm được phân làm 4 loại. Căn cứ để phân loại tội phạm dựa trên tính chất nguy hiểm, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội và cụ thể hơn, người ta dựa vào khung hình phạt đối với tội đó mà nhìn nhận nó thuộc loại tội phạm nào.
Đối với trường hợp trên, cơ quan công an đã khởi tố nghi phạm theo khoản 1, điều 146, bộ luật Hình sự. Mà khung hình phạt của khoản này là bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Đây là hành vi phạm tội ít nghiêm trọng và theo quy định thì nghi phạm có thể được tại ngoại và dùng biện pháp ngăn chặn cấm khỏi đi nơi cư trú.
Tuy nhiên, hiện nay cơ quan điều tra vẫn trong quá trình chờ kết quả giám định tổn thương của nạn nhân từ Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an nên chưa thể kết luận nghi phạm Trình có phạm tội hiếp dâm hay không.
Nếu căn cứ vào các lời khai của nghi phạm, của nạn nhân và các chứng cứ khác để khởi tố tội dâm ô với trẻ em dưới 16 tuổi, đồng thời cho nghi phạm tại ngoại thì cần phải cân nhắc kĩ lưỡng.
Việc để một đối tượng có những hành vi nguy hại đến xã hội, từng có tiền án được tại ngoại rất nguy hiểm cho xã hội.
Cơ quan công an nên tạm giữ hình sự trong quá trình chờ kết quả giám định.