PGS TS Phạm Thế Anh lý giải nguyên nhân lạm phát giá tài sản, đặc biệt là giá đất

Chuyên gia cho biết khoảng cách giữa tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP đã thu hẹp đáng kể từ 2011 - 2020 nhưng vẫn là khá cao, khoảng 10 điểm % mỗi năm. Cung tiền M2 tăng khoảng 4,3 lần trong 10 năm là nguyên nhân gây lạm phát giá tài sản, đặc biệt là nhà đất.

Mới đây, trong ý kiến đến Quốc hội, cử tri Đà Nẵng bày tỏ lo lắng về việc hiện nay trên thị trường xuất hiện rất nhiều tiền, dẫn đến nguy cơ đồng tiền mất giá lớn và khả năng lạm phát cao. Cử tri kiến nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần quan tâm xem xét vấn đề này, theo BizLIVE.

Nguồn tin trên cũng trích dẫn câu trả lời từ phía NHNN, cơ quan này cho rằng thời gian vừa qua, tiền mặt trong lưu thông tăng phù hợp với diễn biến kinh tế, thị trường. Khối lượng và giá trị hàng hóa luân chuyển trong nền kinh tế tăng nhanh dẫn đến lượng tiền mặt cung ra đối ứng cho nền kinh tế cũng tăng tương ứng; thói quen sử dụng và thanh toán bằng tiền mặt của người dân vẫn còn khá phổ biến.

NHNN cho biết lượng tiền mặt trong lưu thông cũng mang tính thời vụ, thường tăng mạnh vào giai đoạn trước dịp lễ Tết. Sau các kỳ nghỉ, tiền mặt lại có xu hướng quay trở lại hệ thống ngân hàng thông qua hình thức tiền gửi.

PGS TS Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), đã có những ý kiến nhận định về vấn đề này.

PGS TS Phạm Thế Anh: Tăng trưởng cung tiền cao là nguyên nhân gây lạm phát giá tài sản, đặc biệt là nhà đất - Ảnh 1.

PGS TS Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách. (Ảnh: VEPR).

Cử tri/đại biểu đặt câu hỏi/phản ánh như thế chính xác chưa?

Tôi không rõ cử tri/đại biểu đặt câu hỏi hay phản ánh cụ thể thế nào, nhưng nếu hỏi chính xác thì phải hiểu tiền ở đây là bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi (số dư tài khoản ở các ngân hàng).

Trước phản ánh về việc "xuất hiện rất nhiều tiền", NHNN chỉ đề cập đến phần tiền mặt ngoài lưu thông là chưa đầy đủ. 

Tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi nhìn chung trong nền kinh tế hiện nay là rất thấp. Đa số người dân giữ phần lớn tiền dưới dạng tiền gửi chứ ít ai giữ phần lớn tiền dưới dạng tiền mặt, trừ những người sống ở nông thôn, người cao tuổi ngại tiếp xúc với công nghệ, hoặc vào những dịp lễ tết cần mua sắm nhiều. Do vậy, trả lời phản ánh "xuất hiện rất nhiều tiền" thì phải trả lời cả phần liên quan đến tiền gửi mới đúng.

Ai là người chịu trách nhiệm trả lời câu hỏi này?

Câu hỏi/phản ánh này gửi tới NHNN là đúng địa chỉ rồi. NHNN là ngân hàng trung ương của Việt Nam, chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ - tức là chịu trách nhiệm về việc điều tiết/kiểm soát cung tiền ( = tiền mặt tiền gửi) trong nền kinh tế. 

Thông qua các công cụ như hoạt động thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu/tái chấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,... NHNN có thể kiểm soát cung tiền và lãi suất, để từ đó đạt được các mục tiêu cuối cùng về lạm phát và tăng trưởng. 

NHNN là tổ chức duy nhất có quyền kiểm soát lượng tiền cơ sở (base money) - tức là những tờ tiền polyme đang nằm trong túi các bạn hoặc trong két sắt của các tổ chức tín dụng. In thêm ra hay thu hồi về là do họ cả.

Vậy có đúng là Việt Nam có rất nhiều tiền hay không?

Để trả lời câu hỏi này thì hãy xem xét mấy dữ liệu sau. Thứ nhất là so sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền với tăng trưởng kinh tế (GDP) và tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam trong 10 năm gần đây (Thời kì trước đó thì tệ hơn nhiều, cung tiền có năm tăng tới 50% và gây ra các đợt lạm phát phi mã 2008 và 2011). 

Trong giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam trung bình là gần 16%/năm, trong khi đó tăng trưởng GDP thực trung bình giai đoạn này chỉ là 6%/năm, còn tăng trưởng GDP tỷ lệ lạm phát trung bình chỉ là 11,4%/năm (H1). 

PGS TS Phạm Thế Anh: Tăng trưởng cung tiền cao là nguyên nhân gây lạm phát giá tài sản, đặc biệt là nhà đất - Ảnh 2.

Nguồn: NVCC.

Khoảng cách giữa tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP đã thu hẹp đáng kể so với thập kỷ 2001-2010 nhưng vẫn là khá cao, khoảng 10 điểm phần trăm mỗi năm.

Kết quả là tỷ lệ cung tiền M2/GDP danh nghĩa của Việt Nam đã vươn lên và bỏ xa các nước trong khu vực (H2). 

Tính đến cuối năm 2019 tỷ lệ này của Việt Nam là 175% còn ở các nước tương đồng trong ASEAN-5 chỉ là chưa tới 130% đối với Malaysia và Thái Lan, 63% đối với Phillipines và chưa đầy 40% đối với Indonesia. Tỷ lệ M2/GDP của Việt Nam vào thời điểm cuối năm 2020 là khoảng 190%.

PGS TS Phạm Thế Anh: Tăng trưởng cung tiền cao là nguyên nhân gây lạm phát giá tài sản, đặc biệt là nhà đất - Ảnh 3.

Nguồn: NVCC.

Năm nay (2021) Việt Nam sẽ sử dụng số liệu GDP mới nên tỷ lệ này sẽ hạ xuống đáng kể.

Sở dĩ tỷ lệ lạm phát trong nước khá thấp trong những năm gần đây chủ yếu là bởi giá nguyên nhiên vật liệu và hàng hóa thế giới giảm, ví dụ như giá xăng dầu giảm từ khoảng 70-80 đô-la từ đầu thập kỷ xuống và duy trì ở mức 30-40 USD/thùng suốt những năm giữa và cuối thập kỷ

Giá hàng hóa thế giới đảo chiều cộng với lượng tiền lớn trong nền kinh tế là các yếu tố có thể kích hoạt lạm phát bất cứ lúc nào, đặc biệt là khi các hoạt động kinh tế sôi động trở lại (tốc độ lưu chuyển tiền tăng lên).

Tăng trưởng cung tiền cao cũng chính là nguyên nhân gây lạm phát giá tài sản, đặc biệt là nhà đất. Sau 10 năm, lượng cung tiền M2 trong nền kinh tế tăng khoảng 4,3 lần. Nói nhà không có gì ngoài tiền là vậy.

Bài viết được trích dẫn theo sự đồng ý của tác giả PGS TS Phạm Thế Anh.

chọn
D2D ước lãi thêm 800 tỷ từ dự án Lộc An
Năm 2024 - 2029, D2D sẽ thực hiện tiếp giai đoạn 2 khu dân cư Lộc An với tổng mức đầu tư gần 1.116 tỷ đồng. Tổng doanh thu dự kiến trong giai đoạn 2 là hơn 2.181 tỷ đồng, lợi nhuận dự kiến 795 tỷ đồng.