Về nguyên tắc thực hiện hoạt động đại lí thanh toán quy định tại khoản 3 Điều 22 Dự thảo nêu: "Bên đại lí thanh toán không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được đồng thời làm đại lí thanh toán cho bên giao đại lí khác nếu không được chấp thuận bằng văn bản của bên giao đại lí mà mình đang làm đại lí thanh toán. Bên đại lí thanh toán không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép giao đại lí cho bên thứ ba".
Nhiều ý kiến của doanh nghiệp và các chuyên gia pháp luật đưa ra băn khoăn về vấn đề này: Không rõ mục tiêu của quy định hạn chế quyền hoạt động (cùng lúc làm đại lí cho nhiều bên, giao đại lí tiếp cho bên thứ ba) bên đại lí thanh toán không phải là tổ chức tín dụng là gì? Để đối phó với nguy cơ gì? Liệu việc nhận làm đại lí cho nhiều bên mà không được sự đồng ý của bên giao đại lí trước đó dẫn tới rủi ro gì, cho ai?...
"Ban soạn thảo cần cân nhắc bỏ quy định tại khoản 3 Điều 22 nếu không làm rõ được lí do và mục tiêu của quy định này", đại diện một doanh nghiệp đề xuất với Ngân hàng Nhà nước, cơ quan chủ trì soạn thảo Nghị định.
Về nghiệp vụ giao đại lí thanh toán, khoản 5 Điều 23 Dự thảo quy định, trường hợp bên đại lí không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bên giao đại lí có biện pháp quản lí số dư, hạn mức giao dịch: Hạn mức rút tiền mặt tối đa đối với khách hàng cá nhân là 20 triệu đồng/khách hàng/ngày; hạn mức trả tiền hoặc chuyển tiền tối đa đối với khách hàng cá nhân là 50 triệu đồng/khách hàng/ngày.
Bên giao đại lí căn cứ vào cơ sở vật chất, hạ tầng của bên đại lí để xác định hạn mức hoặc số dư trên một tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước định danh, thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân mở tại bên giao đại lí theo phương thức trên.
Theo các chuyên gia pháp luật, quy định này cần được xem xét lại. Thứ nhất, Dự thảo chỉ quy định hạn mức rút tiền mặt đối với khách hàng là cá nhân, vậy khách hàng là tổ chức có bị khống chế hạn mức không? Nếu có thì bao nhiêu? Nếu không thì tại sao lại không khống chế đối với khách hàng là tổ chức, trong khi quy định này yêu cầu bên giao đại lí phải có biện pháp quản lí số dư, hạn mức giao dịch?
Thứ hai, quy định bên giao đại lí căn cứ vào "cơ sở vật chất, hạ tầng của bên đại lí để xác định hạn mức và số dư trên một tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước định danh, thẻ tín dụng của khách hàng cá nhân mở tại bên giao đại lí" là chưa hợp lí vì việc xác định hạn mức hoặc số dư tùy thuộc vào nhu cầu của khách hàng và mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, không phụ thuộc vào cơ sở vật chất, hạ tầng của bên đại lí thanh toán.
Điều 26 Dự thảo quy định về điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Trong đó, điều kiện về nhân sự: yêu cầu về bằng cấp và số năm kinh nghiệm của người đại diện theo pháp luật, tổng giám đốc (giám đốc); yêu cầu bằng cấp của một số cán bộ chủ chốt (phó giám đốc, trưởng phòng hoặc tương đương, các cán bộ kỹ thuật) (điểm d khoản 2).
Còn điều kiện về kỹ thuật: có cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công nghệ thông tin, giải pháp công nghệ phù hợp với yêu cầu của hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (điểm đ khoản 2).
Nhiều doanh nghiệp bày tỏ băn khoăn, bởi điều kiện về nhân sự không rõ về mục tiêu quản lí và dường như chưa thực sự phù hợp với mục tiêu khi quy định về điều kiện kinh doanh quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư. Nếu quy định này nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp thì không cần thiết vì đây là nhu cầu tự thân của doanh nghiệp.
Trên thực tế, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đã hoạt động nhiều năm có hiệu quả nhưng không cần phải có người đại diện theo pháp luật và/hoặc các nhân sự chủ chốt đáp ứng điều kiện như quy định ở trên.
Còn điều kiện về kỹ thuật được đánh giá là chưa đủ rõ ràng vì không rõ như thế nào được cho là có các cơ sở vật chất phù hợp với yêu cầu của hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và để đảm bảo tính minh bạch, cần quy định theo hướng có thể định lượng được về điều kiện này.