VKS đề nghị bác kháng cáo của ông Đinh La Thăng, giảm án cho 7 bị cáo khác

Trước tòa hôm qua, bị cáo Đinh La Thăng nói thấy day dứt khi là người đứng đầu để xảy ra sai phạm, hậu quả tại dự án Nhiệt điện Thái Bình 2.

Trước tòa hôm qua, bị cáo Đinh La Thăng nói thấy day dứt khi là người đứng đầu để xảy ra sai phạm, hậu quả tại dự án Nhiệt điện Thái Bình 2.

12:00 11:49 10:52 10:29 09:55 08:39 08:25 08:25
12:00

Phiên tòa sáng 10/5 kết thúc.

11:49

Quan điểm của VKSND

vks de nghi bac khang cao cua ong dinh la thang giam an cho 7 bi cao khac
Các bị cáo trong vụ án xảy ra tại PVN và PVC liên quan dự án nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2. Ảnh: TTXVN

Căn cứ tài liệu hồ sơ trong vụ án, kết quả xét hỏi công khai tại tòa. Kháng cáo Đinh La Thăng, Phùng Đình Thực.

Xét kháng cáo của Thăng, Thực. Đối với kháng cáo của Thăng, căn cứ các bút lục có trong hồ sơ, Đinh La Thăng là chủ tịch HĐQT. Đối với dự án Thái Bình 2, bị cáo Thăng là người chịu trách nhiệm toàn bộ: lựa chọn tổng thầu PVC sai quy định khi PVC không đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm làm tổng thầu…

Lời khia của bị cáo Vũ Hồng Chương, theo biên bản lấy lời khai, bị cáo Chương xác định việc PVN lựa chọn tổng thầu PVC là trái quy định pháp luật vì PVC chưa có kinh nghiệm thực hiện gói thầu, việc chỉ định thầu PVC là trái quy định… Bị cáo Thăng biết không đủ năng lực nhưng vẫn chỉ đạo cấp dưới, yêu cầu PVC hoàn thiện hồ sơ đề xuất, đảm bảo khởi công dự án vào tháng 2, sau lùi sang tháng 3..

Theo VKS, bị cáo Thăng biết hợp đồng EPC 33 chưa đủ quy định của pháp luật. Bị cáo Thăng có vai trò chính trong việc đề ra chủ trương, ký tạm ứng cho PVC để Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm sử dụng tiền sai mục đích, không đưa vào dự án Thái Bình 2, gây thiệt hại cho nhà nước.

Đối với kháng cáo của bị cáo Thực. Với chức năng TGĐ PVN, theo điều lệ, quyết định phân công nhiệm vụ, bị cáo Thực là người điều hành quá trình sản xuất kinh doanh hàng ngày, chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Theo VKS, bị cáo Thực biết rõ hợp đồng 33 chưa đủ căn cứ pháp luật, phải hủy bỏ nhưng bị cáo Thực sau đó vẫn ký quyết định ủy quền cho bị cáo Khánh ký chuyển chủ đầu tư từ PVPower sang PVN….

VKS kết luận: Ông Thực đã có hành vi sai phạm cùng ông thăng chỉ đạo ký hợp đồng EPC trái qui định, gây thiệt hại cho nhà nước.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Minh, Thuận, Quý, Dũng… về tội cố ý làm trái, hành vi cố ý làm trái trong việc triển khai lựa chọn nhà thầu: Từ năm 2008 đến năm 2012, PVC đã thi công 67 công trình, Công ty mẹ - PVC trực tiếp thi công 20 công trình, trong đó 8 công trình có khả năng cân đối dòng tiền, 12 công trình có dòng tiền mất cân đối do chi phí phát sinh ngoài hợp đồng. Về đầu tư tài chính, vượt gần 1.000 tỷ đồng so với vốn điều lệ làm mất cân đối dòng tiền đầu tư của PVC.

Để tạo điều kiện cho PVC, ngày 22/01/2010, Đinh La Thăng ký Văn bản số 706/DKVN-HĐQT gửi Thủ tướng Chính phủ có nội dung: “Cho phép Tập đoàn Dầu khí tiếp tục được giao nhiệm vụ cho PVC và một số đơn vị có năng lực thuộc Bộ Xây dựng được thực hiện xây lắp các dự án do PVN/đơn vị thành viên làm chủ đầu tư theo hình thức chỉ định thầu”.

Ngày 13/4/2010, Đinh La Thăng ký Văn bản số 3072/DKVN-HĐQT gửi Thủ tướng Chính phủ, trong đó đưa Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 vào danh mục các dự án PVN sẽ triển khai thực hiện trong năm 2010 cần được chỉ định thầu và đề xuất Chính phủ ủy quyền cho Hội đồng quản trị PVN quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu.

Sau một hồi phân tích, nêu căn cứ, đại diện VKS khẳng định: “Việc chọn nhà thầu và ký Hợp đồng EPC số 33 nêu trên là làm trái Điều 41 Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng; Điều 16, Điều 17 Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ quy định về Quản lý dự án đầu tư xây dựng; Điều 9, Điều 10 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ quy định về Hợp đồng trong hoạt động xây dựng”.

Tiếp lời, đại diện VKS nói Hợp đồng EPC số 33 được lập, ký không đúng quy định của pháp luật. cụ thể như sau: Ngày 01/3/2011, PVN và PVPower tổ chức lễ khởi công xây dựng công trình Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2.

Ngay sau khi ký Hợp đồng EPC số 33, ngày 02/3/2011, theo chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận, Nguyễn Mạnh Tiến, Phó Tổng giám đốc PVC đã ký Công văn số 676/XLDK-KHĐT gửi PVPower đề nghị tạm ứng 72 triệu USD.

Do không có vốn nên cùng ngày 02/3/2011, ông Đỗ Chí Thanh - Chủ tịch Hội đồng quản trị PVPower đã ký Công văn số 641/ĐLDK-TCKT&KT gửi PVN đề nghị cấp bổ sung vốn điều lệ Quý I/2011 cho PVPower để có tiền tạm ứng cho PVC.

Với lý do PVPower không đủ năng lực làm chủ đầu tư, Đinh La Thăng chỉ đạo Phùng Đình Thực và Nguyễn Quốc Khánh làm thủ tục để PVN thay PVPower làm chủ đầu tư dự án và nhận trách nhiệm tạm ứng cho PVC theo Hợp đồng EPC số 33.

Ngày 25/3/2011, Nguyễn Quốc Khánh ký Văn bản số 15/CVNB-NQK đề xuất để PVN thay PVPower làm chủ đầu tư. Ngày 29/3/2011, theo ủy quyền của Đinh La Thăng, ông Vũ Khánh Trường, Ủy viên Hội đồng thành viên PVN ký Nghị quyết 2602/NQ-DKVN về việc chuyển Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 từ PVPower là chủ đầu tư thành PVN là chủ đầu tư…

Theo VKS, mặc dù Ban Quản lý dự án không có đề xuất PVN tạm ứng cho PVC theo Công văn số 1871/XLDK-TCKT của PVC, nhưng do trước đó, đầu tháng 5/2011, Đinh La Thăng đã gặp Nguyễn Xuân Sơn và Nguyễn Quốc Khánh tại phòng làm việc chỉ đạo phải đẩy nhanh việc tạm ứng cho PVC thực hiện Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, nên Nguyễn Xuân Sơn đã chỉ đạo Ninh Văn Quỳnh phải đề xuất, giải quyết theo hướng đáp ứng đề nghị của PVC.

Sau khi nhận được Công văn trên, Phùng Đình Thực cũng có bút phê: “Phó Tổng giám đốc Nguyễn Xuân Sơn, Ban Tài chính kế toán, Ban Điện xem xét giải quyết phù hợp với hợp đồng đã ký”, Nguyễn Xuân Sơn có bút phê: “Ban Tài chính xử lý”.

Mặc dù biết việc tạm ứng này không đúng quy định, nhưng ngày 20/5/2011, Ninh Văn Quỳnh vẫn ký Văn bản số 668/2011/TCKT&KT báo cáo, đề nghị Nguyễn Xuân Sơn nội dung: “Với tình hình triển khai công việc thực tế và tỷ lệ tạm ứng hợp đồng đang được Ban QLDA đàm phán và chưa đi đến thống nhất sau khi chuyển đổi chủ thể Hợp đồng, đề nghị anh chỉ tạm cấp cho Ban QLDA số tiền 500 tỷ đồng để chuyển cho PVC vào ngày 20/5/2011”.

Ngày 23/5/2011, Nguyễn Xuân Sơn đã ký Quyết định số về việc cấp vốn cho Ban Quản lý dự án để tạm ứng cho PVC theo quy định tại Điều 3, khoản 3.2 Hợp đồng EPC số 33 và ký Công văn số yêu cầu Ban Quản lý dự án tạm ứng trước cho PVC số tiền 500 tỷ đồng trong ngày 23/5/2011. Ngày 23/5/2011, Nguyễn Xuân Sơn và Ninh Văn Quỳnh đã ký Uỷ nhiệm chi số 189 chuyển cho Ban Quản lý dự án số tiền 500 tỷ đồng.

Tuy không đề xuất tạm ứng cho PVC vì biết việc tạm ứng cho PVC lúc này là sai quy định, nhưng Vũ Hồng Chương và Trần Văn Nguyên đã lập Uỷ nhiệm chi chuyển cho PVC số tiền 500 tỷ đồng nêu trên. Sau đó, ngày 25/5/2011, Vũ Hồng Chương ký Văn gửi Phùng Đình Thực - Tổng giám đốc và Hội đồng thành viên PVN báo cáo về việc đã ứng cho PVC 6,6 triệu USD và 500 tỷ đồng .

Hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước trong việc sử dụng 1.115.868.979.065 đồng tiền tạm ứng của Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 không đúng mục đích gây hậu quả nghiêm trọng.

Ngay sau khi được PVN chỉ định thực hiện gói thầu EPC Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, Trịnh Xuân Thanh đã chỉ đạo Vũ Đức Thuận, Nguyễn Ngọc Quý và Nguyễn Mạnh Tiến đẩy nhanh việc ký Hợp đồng EPC số 33 khi chưa đủ thủ tục pháp lý, sau đó xin tạm ứng để có nguồn tiền sử dụng trả các khoản gốc, lãi các khoản nợ, đầu tư, góp vốn vào các dự án, công trình.

Sau khi được bổ nhiệm là Trưởng Ban Tài chính kế toán, qua rà soát tình hình tài chính của PVC, ngày 06/5/2011, Phạm Tiến Đạt lập Báo cáo số 81/BC-TCKT về tình hình tài chính của PVC gửi Hội đồng quản trị, ban Tổng giám đốc nêu rõ thực trạng PVC đã đầu tư quá nguồn vốn chủ sở hữu 1.013 tỷ đồng và hiện không còn nguồn tiền nào để hoạt động.

Vì vậy, sau khi được PVN, Ban Quản lý dự án tạm ứng 6.607.500 USD và 1.312.076.568.646 đồng theo Hợp đồng EPC số 33, thực hiện chủ trương đã thống nhất từ trước, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Ngọc Quý, Vũ Đức Thuận, Nguyễn Mạnh Tiến đã chỉ đạo bị cáo Phạm Tiến Đạt sử dụng 1.115.868.979.065 đồng từ nguồn tiền này để đầu tư, góp vốn vào các công ty, dự án, công trình khác và trả nợ ngân hàng.

Ngày 09/9/2011, theo yêu cầu của đoàn kiểm tra, ông Nguyễn Văn Đồng, Phó Tổng giám đốc PVC ký Văn bản số 3894/XLDK-TCKT báo cáo rõ việc PVC đã sử dụng tiền tạm ứng của Hợp đồng EPC số 33 sai mục đích, nhưng lãnh đạo PVN không có ý kiến thu hồi.

Ngày 24/02/2012, Phùng Đình Thực, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng thành vien PVN ký Văn bản số 1427/DKVN-HĐTV yêu cầu người đại diện phần vốn góp của PVN tại PVC (Trịnh Xuân Thanh) báo cáo tình hình sử dụng đối với nguồn kinh phí PVN đã tạm ứng cho dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2.

Ngày 06/3/2012, Trịnh Xuân Thanh ký Báo cáo số 86 có nội dung xác nhận PVC đã sử dụng phần lớn số tiền tạm ứng cho dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 sai mục đích. Ngày 20/3/2012, Vũ Hồng Chương - Trưởng Ban Quản lý dự án có Công văn số 210 yêu cầu PVC hoàn trả 100% tiền tạm ứng đã bị sử dụng sai mục đích trước ngày 31/3/2012, nhưng sau thời điểm phát hành công văn này, đến ngày 20/11/2012 Ban Quản lý dự án mới bắt đầu thu hồi được khoản đầu tiên. Kết quả điều tra xác định số tiền tạm ứng bị PVC sử dụng sai mục đích số tiền trên.

Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định các bị cáo có hành vi cố ý làm trái.

Về hành vi tham ô: Trên cơ sở thiết kế, dự toán các hạng mục do Lương Văn Hòa hợp thức và trình lên PVC, Nguyễn Anh Minh chỉ đạo các lãnh đạo, chuyên viên Ban Kinh tế đấu thầu và Ban Kĩ thuật an toàn của PVC là Nguyễn Văn Phiên, Đậu Thị Vân, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Dương Sơn Hào, Trịnh Thái Nguyên lập, ký hợp thức các văn bản, thủ tục liên quan đến thẩm định thiết kế, thẩm định dự toán, Nguyễn Anh Minh ký quyết định phê duyệt thiết kế, dự toán. Các thủ tục còn lại, Nguyễn Thành Quỳnh và Lê Thị Anh Hoa ký các thủ tục hợp thức việc thi công, nghiệm thu, hoàn công, quyết toán hạng mục và ký hợp đồng.

Cuối năm 2013, khi rà soát lại hồ sơ các hạng mục khống nêu trên, Nguyễn Anh Minh thấy việc ký quyết định số 118 ngày 12/01/2012 phê duyệt thiết kế, dự toán đường phục vụ thi công khu nhà điều hành Ban Quản lý dự án và nhà làm việc Ban Điều hành tổng thầu tại dự án Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch 1 nhưng chưa xin ý kiến Hội đồng quản trị là sai quy định để hợp thức hồ sơ xin ý kiến Hội đồng quản trị.

Nguyễn Anh Minh đã giao Nguyễn Văn Phiên – Phó trưởng ban kinh tế đấu thầu soạn Tờ trình số 849 ngày 08/12/2011 về việc phê duyệt chủ trương xây dựng hạng mục đường phục vụ thi công khu nhà điều hành Ban Quản lý dự án và Nhà làm việc Ban điều hành Tổng thầu tại Dự án nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1 và đưa cho Lương Văn Hòa ký. Lương Văn Hòa đưa cho Lê Xuân Khánh ký nháy vào tờ trình để Lương Văn Hòa ký vào mục Giám đốc ban điều hành.

Sau đó căn cứ trên tờ trình này Nguyễn Văn Phiên soạn tờ trình số 5253 đề ngày 12/12/2011 để Nguyễn Anh Minh ký, xin ý kiến Hội đồng quản trị, Nguyễn Anh Minh trực tiếp cầm phiếu lấy ý kiến Hội đồng quản trị số 1034 đề ngày 14/12/2011 v/v phê duyệt chủ trưởng xây dựng hạng mục đường phục vụ thi công khu nhà điều hành Ban Quản lý dự án và nhà làm việc Ban điều hành Tổng thầu dự án nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1 và Quyết định phê duyệt chủ trương thi công hạng mục đề ngày 31/12/2011 gặp Trịnh Xuân Thanh để ký hợp đồng.

Trịnh Xuân Thanh đã ghi ý kiến: “Đồng ý đề nghị của Tổng giám đốc triển khai điều hành dự án, tổ chức thi công” vào phiếu lấy ý kiến và ký hợp thức Quyết định nêu trên. Nguyễn Anh Minh cũng cầm phiếu này xin ý kiến của Vũ Đức Thuận và được Thuận ghi ý kiến “Đồng ý” vào phiếu này.

Như vậy bản án sơ thẩm quy kết các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ đúng pl. Tại tòa, BC Thăng chỉ thừa nhận trách nhiệm Chủ tịch HĐQT. Tại tòa, k có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên cần đề nghị giữ nguyên quyết định như bản án sơ thẩm là phù hợp.

Bị cáo Phùng Đình Thực: thừa nhận chưa chỉ đạo kiểm tra, giám sát thường xuyên nên xảy ra đáng tiếc, đề nghị HĐXX giảm nhẹ 1 phần hình phạt.

Bị cáo Anh Minh thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quá trình điều tra, giải quyết vụ án. Bản thân bị cáo cũng cùng gia đình tự nguyện khắc phục số tiền còn lại nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo Hòa cùng gia đình khắc phục, tại tòa không có tình tiết giảm nhẹ, đề nghị HĐXX giữ nguyên hình phạt.

Mạnh Hiển chưa có tiền án tiền sự, xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Mạnh tiến có nhiều thành tích trong công tác, thừa nhận 1 phần hành vi của mình, thành khẩn khai báo, như vậy có thể xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đối với các bị cáo Quỳnh, Dũng, Chương,.. không có tình tiết mới, đề nghị giữ nguyên.

Vì lẽ trên, đề nghị không chấp nhận kháng của bị cáo Thăng, Quỳnh, Dũng. Chấp nhận kháng cáo Khánh, Mậu, Minh, Hiển, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Xét vai trò bị cáo Thực, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Thực.

Bị cáo Hòa không có căn cứ chấp nhận kháng cáo dân sự, không có tình tiết mới hình sự, đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm.

VKS khác bổ sung: Các bị cáo không oan sai, không có căn cứ xem xét, thay đổi tội danh cho bị cáo Thăng. VKS đề nghị giảm án cho 7 bị cáo vì thái độ khắc phục hậu quả, ngoài ra các bị cáo xuất trình các tình tiết giảm nhẹ, bản thân có thành tích trong công tác.

VKS đề nghị giảm nhẹ nhưng chưa đề nghị mức cụ thể. Cái này chúng tôi sẽ xem xét trong quá trình tranh tụng, có thể có bị cáo giảm 1 năm, có bị cáo nhiều hơn.

VKS không thấy có căn cứ xem xét, giảm nhẹ cho các bị cáo không kháng cáo.

Đối với kháng cáo của Hòa, xem xét khoản 554 triệu đồng bị cáo đã nộp, chúng tôi sẽ xem xét trong tranh tụng.

Đối với bị cáo Thực liên quan 4 công văn, phần này yêu cầu luật sư, bị cáo tranh tụng với chúng tôi, nếu nhận được thì khác, không nhận được thì khác, chúng tôi sẽ kết luận có tội hay không có tội.

10:52

Luật sư Vũ Quốc Việt, bào chữa cho bị cáo Ngọc Quý hỏi bị cáo Đạt:

Trong quá trình điều tra, anh khai có làm báo cáo 81. Thời gian, hoàn cảnh anh làm báo cáo đó?

Bị cáo Đạt: Cuối tháng 4/2011 nhận nhiệm vụ kế toán trưởng. 6/5/2011 làm báo cáo 81. Báo cáo này gửi cho ban GĐ và HĐQT. Cái này ở Sơ thẩm anh Thanh và Thuận đều xác nhận nhận được báo cáo của bị cáo.

Luật sư: Sơ thẩm bị cáo không gửi qua văn thư mà gửi trực tiếp cho ai?

Bị cáo Đạt: Cá nhân bị cáo đóng dấu thì không qua văn thư, bị cáo gửi trực tiếp qua thư ký HĐQT.

Luật sư: đề nghị tòa triệu tập thêm thư ký của HĐQT.

Luật sư Việt hỏi tiếp bị cáo Thuận: Báo cáo 81 của anh Đạt có chính xác không?

Bị cáo Đạt: Báo cáo của anh Đạt là báo cáo nội bộ. Tôi là TGĐ thì anh ấy báo cáo trực tiếp cho tôi.

Luật sư: Với vai trò thành viên HĐQT, sau báo cáo 81, HĐQT có tổ chức họp xử lý không?

Bị cáo Đạt: Không, mà chỉ có tôi đứng ra chủ trì họp với ban tài chính kế toán để xử lý.

Luật sư: Quay lại hợp đồng 33, trong quá trình ký kết hợp đồng 33, ngoài việc được mời sang ký hợp đồng PVPower đã soạn sẵn, anh có được bàn bạc, đàm phán không?

Bị cáo Đạt: Không ạ. Vì thời gian quá ngắn. Tôi thực hiện theo nhiệm vụ chủ tịch HĐQT giao thì sang ký hợp đồng đó. Tôi chỉ nhớ cùng ký hợp đồng với anh Quang. Ông Trịnh Xuân Thanh chứng kiến lễ ký đó.

Luật sư: Trong quy định của Luật doanh nghiệp, HĐQT công ty cổ phần có chức danh phó chủ tịch không?

Bị cáo Đạt: Tôi không thấy, duy nhất PVC có.

Luật sư: Bị cáo Quý có gì khác với thành viên HĐQT khác?

Bị cáo Đạt: Việc bổ nhiệm 1 phó chủ tịch, chủ yếu theo chỉ đạo của ông Trịnh Xuân Thanh. Ông Thanh cần có phó chủ tịch để khi ông Thanh ra ngoài thì có người thay mặt ký. Anh Quý phụ trách mảng không liên quan gì tới tài chính.

Cũng theo lời khai của bị cáo Thuận, trong giai đoạn đó bị cáo Quý có đơn xin rút không làm phó chủ tịch nữa. Bị cáo Quý xin nhưng không được chấp nhận.

10:29

Luật sư hỏi Ninh Văn Quỳnh: Khi anh đi công tác, anh ủy quyền cho anh Mậu, anh có nói rõ hợp đồng 33 cho anh Mậu biết không?

Ông Quỳnh: Khi anh Mậu nhận được ủy quyền, tôi không nói rõ cho anh Mậu biết thực trạng hợp đồng 33.

Luật sư: Theo anh, vị trí công việc của anh Mậu, anh ấy có biết rõ hợp đồng 33 không?

Ông Quỳnh: Trong ban tài chính kế toán, tôi có 5 phó ban. Anh Mậu không phụ trách về lĩnh vực dự án.

Luật sư: Bị cáo Mậu sau khi nhận được ủy quyền, sau khi anh đi công tác về, anh có được anh Mậu sang phòng báo cáo. Anh Mậu đã thực hiện việc ủy quyền?

Ông Quỳnh: Đấy là việc thông thường. Sau khi tôi đi công tác về ai cũng phải sang báo cáo ạ.

Luật sư Được hỏi bị cáo Thực:

Bị cáo Thực nói trong bản án có nêu bị cáo nhận được văn bản 179 kế hoạch đầu tư, nhưng bị cáo không nhận được. Có 2 văn bản 179, bị cáo nhận được văn bản 179 nói về than còn văn bản 179 về chi tiền tạm ứng bị bị cáo không nhận được.

Luật sư Đinh Anh Tuấn hỏi bị cáo Thực:

Luật sư: Bị cáo là người không đồng ý phương án giao PVC làm tổng thầu, vì sao?

Bị cáo Thực: Tôi nghĩ rằng PVC lúc đó về mặt kinh nghiệm cũng chưa có, nên tôi nghĩ tốt nhất là liên danh tổng thầu.

Luật sư: Trong liên danh đó, PVC giữ vai trò như nào?

Bị cáo Thực: Trước đó, HĐTV ban hành chủ trương giao PVC làm tổng thầu và yêu cầu PVC phải trình phương án.

Luật sư: Vì sao lúc đầu không ủng hộ, sau đó bị cáo lại ủng hộ PVC làm tổng thầu.

Bị cáo Thực: Chúng tôi thấy có văn bản báo cáo lên chính phủ. Lúc đó chủ tịch HĐTV đã ký thay, tôi nghĩ là HĐTV đã thông qua, với vai trò là TGĐ nên tôi thực hiện.

HĐXX: Ra nghị quyết liên danh tổng thầu, có quy định nào PVN hay PVC phải là đứng đầu liên danh k?

Bị cáo Thực: Có 1 nghị quyết thành lập liên danh. Cũng không nhớ lắm.

HĐXX: Có khi nào PVC báo cáo PVN là không có nhà thầu nào muốn tham gia hoặc có nhưng muốn đứng đầu liên danh?

Bị cáo Thực: Bị cáo không nhận được văn bản nào ạ.

09:55

Luật sư Phan Trung Hoài hỏi bị cáo Vũ Đức Thuận:

Luật sư: Sau khi triển khai nghị quyết, PVC đã làm việc với nhà thầu nước ngoài nào để thực hiện liên danh?

Bị cáo Thuận: Khi được PVN giao làm tổng thầu, PVC có tìm hiểu 1 số đơn vị nước ngoài để thực hiện liên danh nhưng không được vì doanh nghiệp nước ngoài nào cũng muốn đứng đầu liên danh mà như thế chính phủ không thể đứng ra bảo lãnh vốn cho họ.

Tòa hỏi bị cáo Thuận:

HĐXX: Mời nhà đầu tư nước ngoài tham gia liên danh hợp tác là việc của ai?

Bị cáo Thuận: Của PVC ạ.

HĐXX: Bị cáo không nhớ đã mời những nhà thầu nào tham gia à?

Bị cáo Thuận: Việc này lâu rồi nhưng bị cáo không nhớ ạ.

HĐXX: Không nhớ, cái này rất là quan trọng.

Bị cáo Thuận: Dạ.

HĐXX: PVC có văn bản nào báo cáo với PVN không có nhà thầu nước ngoài nào muốn liên danh, nếu liên danh muốn đứng đầu.

Bị cáo Thuận: Bị cáo không nhớ là có hay không.

HĐXX: Căn cứ vào đâu mà PVN lại thay đổi chuyển sang cho PVC là tổng thầu mà không phải liên danh?

Bị cáo Thuận: Bị cáo cũng không nhớ.

08:39

Luật sư Nguyễn Huy Thiệp hỏi bị cáo Đinh La Thăng:

live xet xu phuc tham ong dinh la thang sang 105 ong thang nhan co thieu trach nhiem

Luật sư: Khi PVN là chủ đầu tư thì theo quy định tại NĐ 85 thì trách nhiệm thuộc về PVN đúng không?

Bị cáo Thăng: Đúng ạ.

Luật sư: Chính vì trách nhiệm thuộc về PVN nên ông yêu cầu rà soát lại hợp đồng 33 đúng không?

Bị cáo Thăng: Đúng ạ.

Thời điểm đó không có bất kỳ nhà thầu VN nào có kinh nghiệm tổng thầu của nhà máy nhiệt điện với công suất 1.200W.

Ông Thăng rất tha thiết mong HĐXX xem xét hết sức rộng lượng việc chỉ định PVC làm tổng thầu bởi điều kiện bối cảnh đất nước lúc đó hết sức khó khăn.

Luật sư: Ông có nắm trình tự về chỉ định thầu không theo điều 41, nghị định 85?

Bị cáo Thăng: Theo quy định, chủ đầu tư được lựa chọn chỉ định nhà thầu trước, sau đó mới xem xét hồ sơ thầu. Trên cơ sở đó chủ đầu tư sẽ đánh giá, nếu được thì cho thầu không thì tìm nhà thầu khác.

Luật sư: Với cương vị lãnh đạo là chủ tịch HĐQT, để nắm bắt tình hình chỉ đạo, ông nắm qua đâu?

Bị cáo Thăng: Mọi thông tin đều qua báo cáo của các ban chuyên môn, đơn vị…

Luật sư: Có bao giờ PVC đề nghị ứng vốn mà ông không chấp nhận không?

Bị cáo Thăng: Có từ chối

Luật sư: Tạm ứng hợp đồng 33?

Bị cáo Thăng: Có từ chối

Luật sư: Nếu ông với mục đích như quy kết, ông chỉ đạo tạm ứng theo hợp đồng 33 có phù hợp với thực tế không?

Bị cáo Thăng: Tôi khẳng định lại trách nhiệm tạm ứng không thuộc HĐTV cũng như không thuộc chỉ đạo của chủ tịch… Quy buộc đó không phù hợp với thực tế pháp luật. Chủ tịch không có chức năng tạm ứng.

Luật sư Nguyễn Văn Chiến hỏi bị cáo Thăng:

Luật sư: Việc phân công trách nhiệm theo chức năng nhiệm vụ nhưng khi thực hiện Thái Bình 2, thực hiện theo phân công hay có sự hỗ trợ đan chéo nhau?

Bị cáo Thăng: Phải thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ quyền hạn, theo phân công. Khi có sự giao thoa vướng mắc thì báo cáo TGĐ giải quyết.

Luật sư: Liên quan dự án Thái Bình 2, Quốc Khánh có quyền chỉ đạo chi tiền không?

Bị cáo Thăng: Theo phân công, anh Khánh không phụ trách tài chính. Giả sử anh Khánh có nhận được đề nghị thì anh Khánh cũng phải nộp về Ban kế toán tài chính.

Luật sư: Có nghĩa anh Khánh không có quyền quyết định.

Bị cáo Thăng: Vâng ạ.

Tòa hỏi bị cáo Thăng

HĐXX: Có 2 nhà máy nhà máy nhiệt điện Thái Bình 1 và 2?

Bị cáo Thăng: Đúng ạ. Thái Bình 1 của EVN (điện lực). Thái Bình 2 là PVN. Công suất Thái Bình 1 bằng ½ của Thái Bình 2.

HĐXX: Từ thời gian quyết định thành lập liên danh tổng thầu đến khi chỉ định thầu thì bị cáo không biết có mời thầu hay liên danh tổng thầu không đúng không?

Bị cáo Thăng: Cái đó tôi không biết.

08:25

Phiên tòa bắt đầu

Ông Dũng, đại diện nguyên đơn dân sự PVN: PVN không kháng cáo.

HĐXX: Tuy nhiên có kháng cáo của một số bị hại liên quan tới PVN nên tòa vẫn triệu tập. Tại tòa hôm nay, ông có ý kiến gì về phần thiệt hại không?

Ông Dũng: Chúng tôi tôn trọng các phán quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

HĐXX: Trước khi đưa vụ án ra xét xử, PVN có văn bản gửi tòa xem xét giảm án cho các bị cáo.

Ông Dũng: Dạ vâng ạ. Chúng tôi đề nghị HĐXX xem xét đến thành tích của các bị cáo nguyên là lãnh đạo tập đoàn. Chúng tôi nêu 4 bị cáo: Phùng Đình Thực, Nguyễn Quốc Khánh, Lê Đình Mậu, Ninh Văn Quỳnh, ngoài ra cả ông Đinh La Thăng cũng nguyên là lãnh đạo tập đoàn nữa.

HĐXX: Quá trình điều tra, tòa có nhận được đơn kiến nghị của ông Hiền. Ông hiền là người lấy số trước các công văn để đưa vào hợp đồng 33. Chúng tôi đang xem xét trên cơ sở pháp luật để xử lý. Cũng chưa xử lý gì đúng không?

Ông Dũng: Như tôi đã trình bày, chúng tôi đang xem xét các căn cứ ạ.

HĐXX: Cái này tòa hỏi để trả lời ông Hiền vì ông ấy có đơn gửi đi các nơi về kiến nghị của tòa sơ thẩm.

Luật sư hỏi diện PVN:

Luật sư: Ông cho biết số tiền 1115 tỷ đồng PVC sử dụng hay là các cá nhân như ông Thuận, ông Tiến sử dụng.

Ông Dũng: Chúng tôi hiểu PVC là pháp nhân thương mại. Mà pháp nhân thương mại thực hiện hành vi bao giờ cũng qua cá nhân. Mong HĐXX đánh giá khách quan.

08:25

Nội dung phiên tòa ngày 9/5:

Hội nghị T.Ư 7: Khai trừ Đảng đối với ông Đinh La Thăng Hội nghị T.Ư 7: Khai trừ Đảng đối với ông Đinh La Thăng

Ban chấp hành Trung ương quyết định thi hành kỷ luật ông Đinh La Thăng bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng.

2 'người đặc biệt' xuất hiện trong phiên tòa phúc thẩm ông Đinh La Thăng khai gì? 2 'người đặc biệt' xuất hiện trong phiên tòa phúc thẩm ông Đinh La Thăng khai gì?

Theo lời khai của ông Kỳ, văn phòng PVN đã sử dụng một hệ thống quản lý văn thư lưu trữ điện tử, có thể ...

Ông Đinh La Thăng: 'Tôi cũng sẵn sàng bán căn nhà chung cư để khắc phục hậu quả' Ông Đinh La Thăng: 'Tôi cũng sẵn sàng bán căn nhà chung cư để khắc phục hậu quả'

Sáng 9/5, HĐXX cấp phúc thẩm xét hỏi bị cáo Đinh La Thăng (nguyên Chủ tịch PVN) về nội dung ông kháng cáo. Bị cáo này cho ...

Tòa bất ngờ tạm dừng sau lời khai của ông Đinh La Thăng, triệu tập nguyên Chánh văn phòng PVN Tòa bất ngờ tạm dừng sau lời khai của ông Đinh La Thăng, triệu tập nguyên Chánh văn phòng PVN

Sau khi nghe những lời khai của ông Đinh La Thăng, lúc 9h30 ngày 9/5, chủ tọa bất ngờ tuyên bố tạm dừng phiên tòa.

Xét xử phúc thẩm ông Đinh La Thăng sáng 9/5: Ông Thăng đề nghị 'trách nhiệm của HĐTV phải được làm rõ' Xét xử phúc thẩm ông Đinh La Thăng sáng 9/5: Ông Thăng đề nghị 'trách nhiệm của HĐTV phải được làm rõ'

Ngày 9/5, phiên tòa phúc thẩm xét xử đại án kinh tế gây thất thoát của Nhà nước gần 200 tỷ đồng, xảy ra tại ...

chọn
Toàn cảnh vị trí dự kiến quy hoạch cầu đường sắt vượt sông Ninh Cơ ở Trực Ninh, Nam Định
Một cầu đường sắt dự kiến được xây dựng vượt sông Ninh Cơ thuộc địa bàn các xã Trực Mỹ, Trực Đại, huyện Trực Ninh, Nam Định.