Tại Hội nghị sản phụ khoa Việt Pháp năm 2019 diễn ra trong hai ngày từ 13- 14/5, do Bệnh viện Phụ sản Trung ương phối hợp Hội sản phụ khoa Pháp, các trường Đại học và bệnh viện của Pháp tổ chức tại Hà Nội, báo cáo cho thấy tỉ lệ cho thấy mổ lấy thai ngày càng tăng cao.
PGS.TS Trần Danh Cường, Giám đốc BV Phụ sản Trung ương
Theo PGS. TS Trần Danh Cường, hiện nay Việt Nam chưa có con số thống kê chính thức về tỉ lệ mổ lấy thai, có nơi lên tới 60%. Tính trung bình tại TP Hồ Chí Minh tỉ lệ mổ đẻ khoảng 30%, ở BV Phụ sản Trung ương dưới 50%.
Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho rằng, tỉ lệ mổ đẻ gia tăng ngoài mong muốn, áp lực của gia đình, còn có trách nhiệm của nhân viên y tế.
"Cách tư vấn của chúng ta chưa thống nhất khi vẫn còn cách hiểu “mổ tốt hơn cho bà mẹ, mổ tốt hơn cho em bé”. Thực tế, gia đình sản phụ không nắm được chuyên môn, chủ yếu do công tác tư vấn đề sản phụ lựa chọn một phương pháp (mổ đẻ hay đẻ thường) chính là do cán bộ y tế tư vấn từ lúc mang thai cho đến tận khi đẻ, chứ không phải do gia đình lựa chọn", PGS Cường thẳng thắn nhìn nhận.
Trong khi đó, mổ lấy thai cũng có nhiều biến chứng hơn đẻ thường (có thể chảy máu rất nhiều do gây mê, nhiễm trùng vết mổ…). Đồng thời, nếu mổ lấy thai con thứ nhất thì đương nhiên khi sinh các con sau cũng sẽ phải thực hiện mổ lấy thai bởi vì tử cung có sẹo rồi thì tỉ lệ mổ tăng rất cao.
Theo kết quả nghiên cứu đánh giá thực trạng chăm sóc sản phụ và sơ sinh sau mổ lấy thai của điều dưỡng hộ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, dù mổ lấy thai có thể cứu được tính mạng của mẹ và thai nhi trong một số tình huống cấp cứu nhưng trong khi có sự gia tăng tỉ lệ mổ lấy thai mà không có bằng chứng cho thấy có sự giảm tỉ lệ bệnh tật và tỉ lệ tử vong cho mẹ cũng như trẻ sơ sinh. Trong khi đó lại có sự gia tăng tỉ lệ của những biến chứng liên quan đến mổ lấy thai.
Trong nghiên cứu này, tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, tỉ lệ mổ lấy thai vào những năm 60 của thế kỉ trước là 9%, nhưng đến năm 2015 con số này là gần 40%.
Tại nghiên cứu trên, các bác sĩ cho rằng nhân viên y tế phải hiểu rõ về những biến chứng gần và xa của mổ lấy thai để tư vấn tốt nhất, giảm tỉ lệ mổ đẻ, đặc biệt là ở sản phụ sinh con lần đầu.
Ông Cường dẫn chứng tại Pháp, việc mổ con so là cực kì quan trọng. Thời gian sổ thai được tính cả tiếng đồng hồ nhưng tại Việt Nam thì qui định chỉ có 30 phút, nếu quá 30 phút không sổ thì bắt buộc phải mổ lấy con ra.
Hơn nữa, ở nước ta giá mổ đẻ với đẻ thường khác nhau hoàn toàn, đẻ thường chỉ mất mấy trăm nghìn còn mổ đẻ vài triệu. Cho nên, ông Cường nêu “về mặt kinh tế, một số bệnh viện, một số nơi tự chủ về kinh tế người ta chọn phương pháp mổ lấy thai để tăng nguồn thu cho bệnh viện”.
Hiện nay, xu hướng mổ lấy thai ở thành phố lớn hơn vùng nông thôn, vì công tác tư vấn ở vùng nông thôn khác hơn ở Thành phố.
Theo PGS Cường, tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương tỉ lệ đẻ thường đã tăng lên rất nhiều vì bệnh viện kiểm soát chặt chỉ định mổ. Trước đây, đẻ mổ - đẻ thường tỉ lệ tương đương, nay tỉ lệ mổ đẻ đã thấp hơn đẻ thường.
"Việc sinh nở tự nhiên tốt cho cả bà mẹ và thai nhi”, ông Cường nói.
Tuy nhiên, do đặc thù là bệnh viện tuyến cuối, các ca sinh nở khó, bệnh lí, thai to… chuyển đến viện rất nhiều nên số ca mổ đẻ vẫn rất lớn.
"Bệnh viện đã làm rất chặt chẽ về chỉ định mổ, không đáp ứng nhu cầu “xin mổ” của sản phụ, mà chỉ trong trường hợp không thể đẻ thường mới chuyển đẻ mổ", ông Cường nói.
Hội nghị sản phụ khoa Việt Pháp năm 2019 diễn ra trong hai ngày từ 13 đến l4-5 tại Hà Nội với sự tham dự của hơn 1.600 đại biểu là các giáo sư, bác sĩ và các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.
Tại hội nghị, 72 bài báo cáo khoa học của 21 giáo sư, chuyên gia quốc tế như Anh, Pháp, Hà Lan, Phần Lan, Singapore, Thái Lan…sẽ được trình bày; Ngoài ra 30 báo cáo viên của Việt Nam cũng trình bày về các đề tài mang tính thời sự trong lĩnh vực sản phụ khoa, ung thư sinh dục, chẩn đoán trước sinh và y học thai nhi, vô sinh và hỗ trợ sinh sản, nội tiết mãn kinh, sơ sinh, kế hoạch hóa gia đình…
Thông qua Hội nghị này, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và nhiều cơ sở y tế trong lĩnh vực sản phụ khoa, sơ sinh, sức khỏe sinh sản sẽ được học tập, trao đổi, chuyển giao và ứng dụng được nhiều kĩ thuật chẩn đoán và điều trị hiện đại từ các quốc gia có nền y học tiên tiến, đồng thời là cơ hội để quảng bá, nâng cao vị thế của Bệnh viện Phụ sản Trung ương, các bệnh viện khác trên diễn đàn quốc tế.